Làng nghề truyền thống Hà Nội: thăng hoa cùng văn hóa - sáng tạo để hội nhập: Bài cuối: Khảm trai làng Chuôn Ngọ - Tinh hoa nghề Việt vươn tầm cao mới
Từ xa xưa, làng Chuôn Ngọ (xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội) đã nức tiếng với nghề khảm trai. Với đôi bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, người thợ làng Chuôn Ngọ đã biến những vỏ trai vô tri vô giác thành những sản phẩm có giá trị văn hóa, nghệ thuật và các mặt hàng đã vươn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Làng nghề nghìn năm tuổi
Vượt quãng đường gần 40km theo Quốc lộ 1A cũ rồi đi ven đê sông Nhuệ, chúng tôi đặt chân tới làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ. Ngay từ cổng chào của làng, tiếng khoan, đục, mài của những người thợ làm nghề như một “bản giao hưởng” đã vọng vào tai khách phương xa. Di chuyển tới giữa làng, chúng tôi được người dân giới thiệu đền thờ Tổ nghề khảm trai Chuôn Ngọ. Đền tựa lưng vào làng với cây đa tỏa bóng mát, phía trước đền có một hồ nước tạo nên sự cổ kính, trầm mặc, tĩnh mịch, sơn thủy hữu tình. Đền thờ tổ nghề khảm trai đã được Bộ Văn hóa xếp hạng Di tích lịch sử từ năm 1996. Cùng đó hàng năm, ngày mùng 9 tháng Giêng và ngày mùng 9 tháng Tám (âm lịch), người dân làng Chuôn Ngọ tổ chức lễ tri ân công lao Tổ nghề.
Người dân Chuôn Ngọ suy tôn tướng Trương Công Thành (1053-1099) thời nhà Lý, có công giúp Lý Thường Kiệt đánh hai châu Ung và Liêm, là tổ sư và tổ nghề khảm trai. Theo truyền thuyết và thần phả còn lưu lại tại đền, sau khi giúp vua chiến thắng quân Tống, tướng Trương Công Thành “xin lui về chốn nhà tranh, tháng ngày đọc kinh niệm Phật”. Về làng Chuôn Ngọ, những lúc nhàn rỗi, ngài thường ngao du sơn thủy. Một lần đi bộ trên bờ biển, Trương Công Thành thấy vỏ trai có vân ngũ sắc thường đã ngắm nghía, sau đó nhặt về và chắp thành hình, thành chữ. Ông gọi dân đến dạy cách khảm, lúc đầu gọi là khảm xà cừ. Nghề khảm trai trên gỗ tại Chuôn Ngọ có từ đó và được lưu truyền, gìn giữ đến tận hôm nay với bề dày lịch sử nghìn năm.
Đối diện đền thờ Tổ nghề khảm trai là cơ sở sản xuất của anh Nguyễn Đình Dũng, 36 tuổi. Chúng tôi đã mở lời chỉ muốn tìm hiểu về nghề khảm trai, nhưng khi đang ngắm những bức tranh khảm trai chợ quê xưa, chùa Một Cột, tráp đựng trầu tuyệt đẹp, anh Dũng vẫn dí dỏm “mời chào” chúng tôi: “Các anh cứ tham quan và tìm hiểu, nếu muốn đặt làm hoành phi, câu đối hay tranh phong cảnh, truyền thần… cứ đưa ra yêu cầu. Nếu mua sản phẩm, tôi sẽ để lại với giá phải chăng”.
Nghệ nhân trẻ tuổi cho biết thêm, xưa kia làng nghề Chuôn Ngọ đã rất nổi tiếng. Hầu hết những sản phẩm của làng là khảm trai trên các khay trà trong triều đình và khảm trên những chiếc bàn tiệc của vua, chúa và hoàng hậu. Thời phong kiến, chỉ những người giàu có và các nhà nho mới có được những đồ khảm trai chứ không phải ai cũng có thể mua hoặc được tặng. Nhiều nhệ nhân của làng Chuôn Ngọ đã từng được triệu vào kinh thành Huế để làm đồ khảm cho nhà vua như Nguyễn Văn Phú, Lý Mục…
Thế kỷ 20 là hàng loạt nghệ nhân đã làm rạng danh nghề khảm trai Chuôn Ngọ, có thể kể đến nghệ nhân Cửu Phú, Nhiêu Mính, Phó Loan, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Nhiên, Trần Bá Chuyển, Nguyễn Văn Mỹ, Hoàng Văn Trinh, Nguyễn Nhật Tăng, Nguyễn Phú Bút, Phạm Văn Lộ, Trần Bá Luân...
Tinh hoa nghề Việt, sáng tạo và vươn ra thế giới
Trải qua hơn 1.000 năm, bước qua những thăng trầm, nghề khảm trai Chuôn Ngọ tưởng như bị mai một, nhưng các thế hệ thợ nghề tâm huyết vẫn bám trụ với nghề khảm trai. Hiện làng Chuôn Ngọ có hàng chục cơ sở sản xuất đồ khảm trai truyền thống, cùng lực lượng thợ nghề trong độ tuổi từ 30 – 50 chiếm đa số lên đến hàng trăm người.
Anh Nguyễn Kỳ Tổ đã có gần 15 năm làm nghề khảm trai, chia sẻ, đây là một nghề lắm công phu và là tinh hoa không chỉ của Việt Nam mà còn nổi tiếng thế giới. Để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, người thợ khảm trai phải trải qua nhiều công đoạn chính gồm vẽ mẫu; cưa trai theo nét vẽ; đục gỗ; gắn trai vào gỗ; mài khảm, thể hiện đường nét; dùng bột đen làm rõ các chi tiết của bức tranh. Trong đó, việc cẩn xà cừ đòi hỏi thao tác liên hoàn ở trình độ rất cao: dựa theo nét vẽ, nghệ nhân sẽ đục gỗ và gắn nguyên liệu họa tiết lên đó. Sau khi cẩn tranh thì tỉa gọn, đánh bóng (mài khảm) rồi vẽ nét. Những bức khảm cổ nghệ nhân tự vẽ mẫu, về chữ Nôm hay Hán người thợ phải tìm đến các chuyên gia để nhờ viết.
Nghệ nhân trẻ tuổi Nguyễn Đình Dũng chia sẻ, lúc còn nhỏ thường trốn đi chơi với chúng bạn. Thấy vậy, bố mẹ “trói” đứa con trai nhỏ ở nhà bằng cách cho học nghề khảm trai truyền thống. Thời gian thoi đưa, anh Dũng có thêm niềm đam mê và có một nghề trong tay - khảm trai. “Người thợ giỏi phải kết hợp nhiều thứ, trong đó có hội họa, điêu khắc, đức tính cần cù, chịu khó”, anh Dũng chia sẻ, “có những bức tranh khảm trai phải làm đến 6 – 7 tháng mới hoàn thiện được. Từ việc cắt hình dán lên nền gỗ, sau đó đục gỗ để gắn trai xuống, chờ sơn khô đến công đoạn tỉa, mài. Tất cả là một quá trình đòi hỏi người thợ phải rất cẩn thận, tỉ mỉ mới làm được”.
Trước đây, sản phẩm khảm trai của làng nghề Chuôn Ngọ chủ yếu về hoành phi, câu đối trong nhà thờ, đình đền, trang trí họa tiết trên sập gụ, tủ chè hay làm theo tích xưa, tranh tường phỏng theo truyện Tam Quốc, những bộ “ tùng, trúc, cúc, mai”, tích “Tam cố Thảo Lư”, “Văn chương cầu hiền”... Nhưng để bắt kịp với sự phát triển của đời sống xã hội, sản phẩm khảm trai Chuôn Ngọ đã đa dạng, phong phú hơn rất nhiều.
Hiện nay, nghệ nhân làng Chuôn Ngọ sáng tạo nhiều dòng mẫu mã đa dạng, chế tác đồ trang trí, lưu niệm: hộp, khay trầu, ấm tích, câu đối, tranh phong cảnh, tranh truyền thần và bắt đầu kết hợp với dòng tác phẩm chạm nổi bằng xương ốc, trai mang tính kỹ thuật - mỹ thuật cao nhưng vẫn giữ được giá trị truyền thống. Anh Nguyễn Đình Dũng tự hào chia sẻ, qua đôi bàn tay của người thợ Chuôn Ngọ, những vỏ ốc, trai vốn vô tri vô giác có ở các vùng biển của Việt Nam và nhập từ Singapore, Malaysia, Indonesia đã được thổi hồn, làm nên nhiều sản phẩm gắn với văn hóa Việt, như tranh “Vinh quy bái tổ”, tích chợ xưa với cảnh buôn bán tấp nập, tranh “sĩ nông công thương”...
Điểm nổi bật của kỹ thuật khảm trai Chuôn Ngọ là những mảnh trai không vỡ, luôn phẳng, được gắn xuống gỗ rất khít và chủ yếu làm theo phương pháp thủ công. Sản phẩm khảm trai của làng Chuôn Ngọ vì thế đã định vị được thương hiệu, thời gian qua không chỉ được người dùng trong nước ưa chuộng mà còn xuất khẩu đi nhiều nước, nhất là thị trường Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản, Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan... vì đường nét sắc xảo, phối màu đẹp, rõ ràng và rất có hồn.
Rời khỏi làng Chuôn Ngọ khi đã quá trưa nhưng chúng tôi còn nghe tiếng cưa, đục, chạm khắc của người thợ vọng lại. Chúng tôi cảm nhận được khảm trai - tinh hoa nghề Việt trên đất Thăng Long đã, đang được người dân nơi đây gìn giữ, ngày đêm sáng tạo ra những sản phẩm mới, góp phần phát triển làng nghề truyền thống của Hà Nội vươn tầm cao mới./.