10 câu đối ở Trấn Vũ quán

Hoàng Mai Hương| 31/01/2023 09:15

Trấn Vũ quán (nay là đền Quán Thánh) nằm ở phía Bắc kinh đô, là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long. Theo văn bia khắc bài minh của vua Lý Thái Tổ ngày 20 tháng Năm năm Thuận Thiên thứ hai (1011) hiện đang lưu ở đền Sái (làng Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh) thì sau khi lên ngôi, Ngài tiến hành rước duệ hiệu Thánh Huyền Thiên về ngự ở đền Trấn Vũ với mong muốn nhờ uy linh của Thánh để “điện quốc đô” (khiến kinh đô vững bền).

den-quan-thanh-1.jpg

Nội dung bài minh như sau:
Năm Thuận Thiên thứ hai ngày 20 tháng Năm.
Từng nghe từ cổ (người) lập công một thời, hưng lợi một bang, nhất nhất phải ghi ơn và thờ tự.
Bảo hộ đất nước, công lao với dân, đức ấy lớn thay!
Thiên đế từ phương Bắc xuống nước Nam truyền thần công đức, vô cùng anh linh không gì thay thế được.

Ta thụ mệnh trời, mở rộng hồng đồ, kiến tạo thành Thăng Long, truy theo đức Trấn Vũ ở Đương sơn. Xin ngài trấn ngự phù trợ ở phía Bắc bang của ta, để cho dân trong thiên hạ ghi ơn. Ở đầu hồ cửa phía Bắc thành từng lập đền thờ tự Ngài.

Ngày mồng 5 tháng Năm, ta thân hành phụng nghênh duệ hiệu (Ngài) về thành của ta phụng sự để quốc đô mãi vững bền, dân phụng thờ như cũ.
Trong đền Trấn Vũ có rất nhiều câu đối hoành phi cổ quý giá. Đặc biệt ở gian giữa đền, trên cao là những câu mang vẻ thâm trầm, không rực rỡ sơn son thếp vàng mà sơn then khảm trai với họa tiết là những dây hoa nhỏ, tinh tế sang trọng. Đó là ý tứ của các bậc trí thức, trọng thần… của triều đình nhà Nguyễn đời vua Thành Thái khắc họa vào năm Quý Tỵ - 1893, ca tụng “Bắc kì đệ nhất danh thắng” với thế đắc địa linh thiêng, vẻ đẹp kỳ thú và sự trường tồn của nơi đây.

Dưới đây là 10 câu đối ở đền Trấn Vũ:

Câu 1: Đặt ở cổng tam quan
Phiên âm:
Đăng môn diêu vọng Long Đỗ, chung linh đặc địa lâu đài cận ấp Tây Hồ nguyệt
Lịch đại xứng truyền Đế đô, tứ trấn kính thiên hoa biểu dao đối Vũ Đương sơn.
Dịch nghĩa:
Lên cửa trông xa Long Đỗ, đúc hun đất quý, lâu đài ôm ấp bóng nguyệt Tây Hồ.
Truyền đời danh xứng Đế đô, tứ trấn kính thiên, hoa biểu xa nghênh
Vũ Đương núi biếc.

Câu 2: Đặt ở ban thờ, dưới bức hoành “Thiên địa đồng kì du cửu” (Muôn thuở cùng trời đất). Câu này do Nguyễn Khắc Vĩ - Thượng thư sung Bắc Kì Kinh lược Nha thương tá bái đề.
Phiên âm:
Lục thất lý bình hồ lưu sảng hạo, liên hương trúc ảnh tịch thần quang điểm xuyết,
phong nguyệt song thanh.
Thiên bách lý di tượng nghiễm sùng, cao hổ quái hồ yêu trượng pháp lực
khu trừ yên vân tứ tán.
Dịch nghĩa:
Sáu bảy dặm hồ yên bát ngát, hương sen bóng trúc, mượn thần quang điểm xuyết,
gió mát trăng thanh.
Trăm ngàn năm để tượng nghiêm sùng, hổ lớn hồ tinh, dùng pháp lực đuổi trừ,
mây tan khói tán.

Câu 3: Câu này do Dương Khuê - Thượng thư sung Bắc kì Kinh lược nha Tham tá bái đề.
Phiên âm:
Diệu đế thục năng tri, thiêm khả bốc, mộng khả kì, thiên địa quỷ thần u giả.
Đạt quan đương tự ngộ, sơn chi cao, thuỷ chi viễn,
nhân dân thành quách thị da?

Dịch nghĩa:
Diệu đế ai hay biết, thẻ cứ bốc, miệng cứ cầu, trời đất quỷ thần u hiển?
Đạt quan đương tự ngộ, non thì cao, nước thì thẳm,
nhân dân thành quách đó chăng?

Câu 4: Câu này do Dương Lâm - Tuần phủ Thái Bình; Trần Văn Viễn - Án sát; Vũ Hữu Ngọc - Thị lang lãnh Đốc học bái đề.
Phiên âm:
Yên ba vạn khoảnh trung, Lê chi đài da, Trịnh chi cung da, phủ ngưỡng trần tích.
Hồ sơ thiên lý ngoại, Nùng kì chẩm dã, Nhĩ kì đối dã, cao thâm cự quan.
Dịch nghĩa:
Giữa khói mây vạn khoảnh, đài nhà Lê này, cung chúa Trịnh nọ,
ngước trông nền cũ.
Ngoài núi hồ ngàn dặm, gối ở non Nùng, đai quanh sông Nhĩ,
quang cảnh cao thâm.

Câu 5: Đặt ở dưới bức hoành “Bắc kì đệ nhất danh thắng”. Câu này do Trương Quang Đàn - Phụ chính đại thần Đông các Đại học sĩ bái đề.
Phiên âm:
Cổ Thăng Long tam thập cảnh chi nhất linh tích cửu lưu kỉ truyền,
kinh tang hải biến thiên, biệt thành tịnh địa.
Hoàng Thành Thái ức niên sơ ngũ hưu công trùng sáng tạo,
tòng thử phong vân ủng hộ, vĩnh trấn danh đô.
Dịch nghĩa:
Cổ Thăng Long một tích thiêng của ba mươi cảnh, cửu lưu truyền lại,
dâu bể biến thiên thành nơi tịnh địa.
Vua Thành Thái năm thứ năm trong ức vạn niên, sáng tạo trùng tu,
phong vân quấn quýt, mãi trấn danh đô.

Câu 6: Đặt dưới bức hoành “Tác sơn hà chi tráng” (Đem lại lại vẻ hùng tráng cho non sông). Câu này do Phan Trọng Địch - Nguyên Phiên sứ Hải Dương bái đề.
Phiên âm:
Đông Chí Linh, tây Tản Viên, tuệ nhãn thí cao chiêm
Nam Bảo Đài, bắc Lạn Kha, vạn lý giang sơn chiêu củng ngoại
Tiền Lãng Bạc, hậu Hoàn Kiếm, sùng từ thử tằng tráng
Tả Bích Câu, hữu Trúc Bạch, nhất thiên cảnh trí họa đồ trung.
Dịch nghĩa:
Đông Chí Linh, tây Tản Viên, mắt sáng thử cao trông
Nam Bảo Đài, bắc Lạn Kha, vạn dặm non sông cùng chầu lại
Trước Lãng Bạc, sau Hoàn Kiếm, đền thiêng này càng đẹp
Trái Bích Câu, phải Trúc Bạch một trời cảnh vật ở tranh này.

Câu 7: Câu này do Lê Hoan - Tuần phủ Hưng Hóa, gia Thự Tổng đốc nha; Nguyễn Thuật - Án sát; Lê Vĩnh Mô - Đốc học bái đề.
Phiên âm:
Vũ Đương sơn thạch luyện hà niên sắc tướng câu không, chân thân thường tại
Huyền Thiên quán vân du thử nhật tiên chi ngẫu kí, linh tích trường lưu
Dịch nghĩa:
Núi Vũ Đương luyện đá năm nao, sắc tướng đều không, chân thân thường tại.
Quán Huyền Thiên vân du ngày ấy, gửi cả Tiên chi, tích thiêng còn mãi.

Câu 8: Câu này do Trần Đình Túc - Tổng đốc Hà Ninh bái đề.
Phiên âm:
Đĩnh nhạc độc nghiên chung, tố An Dương hất Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê,
hộ quốc tí dân tinh linh cái cổ
Trung thiên địa nhi lập, đương Chu, Tần lịch Hán, Đường Tống, Nguyên,
Minh, siêu phàm nhập Thánh, thanh tích truyền kim.
Dịch nghĩa:
Vươn cao sừng sững, từ An Dương vương đến Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê,
hộ quốc cứu dân, anh minh tự cổ
Đứng trong trời đất, ngang cùng Chu, Tần đến Hán, Đường, Tống,
Nguyên Minh, siêu phàm như Thánh, danh mãi đời sau.

Câu 9: Câu này do Nguyễn Đình Quang - Bố chánh Hải Dương bái đề.
Phiên âm:
Mỹ tai, thử đế vương chi đô, nhung mã kỉ kinh vạn trượng,
kiên thành vô phu xứ
Nguy nhiên, dữ thiên địa tịnh lập, uy xà vĩnh trấn,
thiên thu bảo kiếm hũ dư linh
Dịch nghĩa:
Đẹp thay! Kinh đô đế vương, nhung mã bao phen,
vạn trượng thành dày không thể phạm.
Lớn vậy! Vững cùng trời đất, rắn rùa trấn yểm,
ngàn năm kiếm báu mãi còn thiêng.

Câu 10: Câu này do Nguyễn Trọng Hợp - Phụ chính Đại thần, Văn minh điện Đại học sĩ, Cơ mật viện Đại thần, Quốc sử quán Tổng tài, kinh diên giảng quan kiêm quán Khâm Thiên giám sự vụ, tước Vĩnh Trung tử bái đề.
Phiên âm:
Bắc phương chi tinh viết Huyền Vũ, trung thiên địa nhi lập
Nam Giao hữu quốc tự Hồng Bàng, lịch Trần Lê hất kim
Dịch nghĩa:
Sao nơi Bắc phương gọi là Huyền Vũ, sừng sững giữa trời
Nước ở Nam Giao tự thủa Hồng Bàng, Trần Lê tiếp nối.
Trên đây là 10 câu đối do các danh sĩ triều Nguyễn, chủ yếu viết vào năm Quý Tị niên hiệu Thành Thái - 1893. Nội dung các câu đối thật phong phú, hàm súc thể hiện tài năng của các văn tài như Nguyễn Trọng Hợp, Dương Khuê... đều là người Hà Nội. Đầu xuân năm mới, vãng cảnh dâng hương đền Quán Thánh, đọc các câu đối này để hiểu thêm giá trị đặc biệt của một di tích ở Thủ đô, cũng như tầm vóc người xưa sớm đã nhìn xa trông rộng. Quốc đô gấm vóc, linh khí ngàn đời, ngưỡng trông càng thêm kiêu hãnh!

Bài liên quan
  • Đền Quán Thánh - những điều còn chưa biết
    “Quan Thánh” hay “Quán Thánh” mới là tên gọi đúng? Đền Quán Thánh là “quán” hay là “đền”? Ai là vị thần được thờ ở đền Quán Thánh? Vì sao trước những kỳ thi quan trọng, nhiều người đưa con em mình đến lễ bái ở đó?... Những câu hỏi ấy được giải đáp phần nào qua cuốn sách “Quán Thánh - Ký ức tư liệu Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội” (NXB Thế Giới và Tri Thức Trẻ Books liên kết xuất bản).
(0) Bình luận
  • Ký ức Hà Nội thời bao cấp qua di sản kiến trúc
    Lịch sử đô thị Hà Nội có tầng tầng, lớp lớp các công trình kiến trúc được chia thành nhiều giai đoạn. Nếu như các công trình kiến trúc Pháp là minh chứng cho bước đầu du nhập văn minh phương Tây thì những công trình mang phong cách kiến trúc Đông Dương lại là sự kết hợp độc đáo giữa văn hóa phương Đông và phương Tây. Những công trình kiến trúc thời kì 1954 - 1986 đã thể hiện một tiếng nói mới, có sự kế thừa, học hỏi và sáng tạo, mang bản sắc kiến trúc Việt Nam, góp phần kiến tạo xã hội trong tâm thế một dân tộc được làm chủ vận mệnh của mình.
  • Đô thị sinh thái Thăng Long - Hà Nội là cơ sở hình thành văn hóa thanh lịch, giá trị sống hướng tới sự an bình
    GS-TS. Đặng Cảnh Khanh - Viện trưởng Viện nghiên cứu truyền thống và phát triển, nhận định, đô thị sinh thái Thăng Long - Hà Nội chính là cơ sở cho sự hình thành văn hóa thanh lịch và giá trị sống hướng tới sự an bình. Sự thanh lịch của con người đô thị Thăng Long, trước hết có lẽ được bắt đầu hình thành từ chính cảnh sắc của Thăng Long – Hà Nội.
  • Văn hóa Thăng Long - Hà Nội trở thành tâm điểm của những sáng tạo và phát triển văn hóa
    Theo GS.TS. Đặng Cảnh Khanh (Viện trưởng Viện nghiên cứu Truyền thống và phát triển), tính chất thanh cao, tôn trọng sự hài hòa và an bình khiến cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội trở thành tâm điểm của những sáng tạo và phát triển văn hóa. Bởi vậy, UNESCO phong tặng danh hiệu “Thành phố hòa bình” cho Hà Nội là đúng đắn.
  • Đêm hồ Gươm kỳ diệu
    Sáng rực, lung linh, huyền ảo, thơ mộng - những vòm cây ven hồ sẫm tối nhả ra muôn ngàn trái quả nhấp nhánh như trong một đêm địa đàng, một vườn cổ tích. Ấy chính là quang cảnh hồ Gươm những ngày lễ Tết trong ký ức tuổi thơ tôi.
  • Chuyện ở hàng nước mắm
    Những năm 1958 - 1959, Hà Nội chưa bước vào nền kinh tế bao cấp, các cửa hàng tư nhân lâu đời vẫn hoạt động buôn bán ở khắp các phố phường. Dạo ấy, tôi đã bảy, tám tuổi nên thường được bà ngoại và mẹ sai đi mua những đồ lặt vặt cho gia đình.
  • Kiến trúc Thủ đô (1954 - nay): Dấu ấn qua mỗi chặng đường
    Sau ngày tiếp quản (10/10/1954), từ một thành phố nhỏ bé, với lượng dân số ít, Hà Nội đã vươn tầm trở thành thành phố lớn trong khu vực và thế giới với không gian kiến trúc đô thị đa hệ, giàu bản sắc và phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, có thể thấy ngành kiến trúc quy hoạch xây dựng đã có những đóng góp đáng kể và để lại nhiều dấu ấn. Đây chính là những bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của đô thị Hà Nội trong tương lai.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Trường đại học đầu tiên đạt chứng chỉ EDGE uy tín toàn cầu
    Sở hữu khuôn viên xanh rộng 6.5 hecta với tổng vốn đầu tư 165 triệu USD, Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV) mới đây đã đạt chứng chỉ xanh EDGE uy tín, “bảo chứng” của nhiều công trình xanh quy mô trên toàn cầu.
  • Chung kết cuộc thi: Đổi mới phong cách của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh
    Ngày 21/11, Công đoàn Y tế Việt Nam tổ chức Chung kết Cuộc thi tuyên truyền kết quả thực hiện kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ Y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh” và giải pháp giai đoạn 2 “Thấu hiểu, tận tâm – Nâng tầm, đổi mới”.
Đừng bỏ lỡ
10 câu đối ở Trấn Vũ quán
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO