Nhắc tới nhân sâm, dân gian không chỉ lưu truyửn tác dụng tuyệt vời gần như có thể cải tử hoà n sinh của nó, người ta còn tỉnh táo nhắc nhau câu chuyện cười đau bụng uống nhân sâm... tắc tử. Để thấy rằng nhân sâm rất tốt, nhưng phải biết cách sử dụng, nếu không, có thể dẫn tới cái chết như thường. Và đương nhiên, với những mử¹ nữ quyửn quý trong cung, nhân sâm ắt là một vị nhất thiết phải có trong kho y dược mử¹ phẩm của cung đình.
Hương thơm từ trong truyửn thuyết
Có một truyửn thuyết vử nhân sâm như sau: Thuở xưa, có một đửn thử được gọi là đửn Vân Mộng trên ngọn núi Vân Mộng (nghĩa là Giấc mộng của mây) ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Trong đửn có một vị sư phụ và một đồ đệ. Sư phụ đối xử với đồ đệ rất tà n nhẫn khiến cho vị sư trẻ trở nên xanh xao gầy yếu. Một ngà y nọ, vị sư già rời khửi đó và để đồ đệ là m việc một mình ở trong đửn. Một đứa trẻ mặc yếm đử không rõ tung tích xuất hiện để giúp vị sư trẻ. Kể từ đó, bất cứ khi nà o vị sư già rời đi, nó cũng đến và giúp vị sư trẻ là m việc. Cứ khi nà o vị sư già trở vử, thì đứa trẻ lại biến mất. Thời gian trôi qua, vị sư già nhận thấy đệ tử hồng hà o, khửe mạnh và có thể hoà n thà nh mọi việc được giao. Vị sư già bối rối và nghĩ có cái gì đó thật là lạ. à”ng ta gọi đồ đệ của mình đến và hửi anh việc gì đang xảy ra.
Dương Quý Phi được người đời xem là "Tứ đại mử¹ nhân" của Trung Quốc. |
Vị sư trẻ miễn cườ¡ng kể cho ông ta nghe sự thật. Vị sư già nghĩ: Rất ít người sinh sống trên núi, vậy đứa trẻ yếm đử từ đâu đến nhỉ? Nó chắc hẳn phải là cây thảo dược huyửn thoại (nhân sâm). à”ng ta bèn lấy một sợi chỉ mà u đử xâu và o cây kim và trao cho vị sư trẻ. à”ng ta ra lệnh cho đồ đệ phải cắm cây kim và o chiếc yếm đử của đứa trẻ khi nó quay lại. Ngà y hôm sau, vị sư già lại đi. Vị đồ đệ muốn kể cho đứa trẻ nghe chuyện gì đã xảy ra, nhưng anh ta quá sợ hãi không dám trái lời thầy. Cuối cùng anh ta cắm cây kim và o chiếc yếm đử của đứa trẻ khi nó vội và ng biến mất. Sáng sớm hôm sau, vị sư già nhốt đồ đệ và o trong đửn rồi cầm cuốc, lần theo sợi chỉ mà u đử tìm đến một cây thông đử già . Nơi đó ông ta đã tìm thấy loà i thảo mộc huyửn thoại. à”ng ta vô cùng sung sướng vử khám phá của mình khi cuốc lên được một củ nhân sâm lớn mang hình dạng một đứa bé. Vị sư già mang cây nhân sâm vử ngôi đửn và bử nó và o nồi nước. Sau đó, ông ta đè một cục đá lên nắp nồi, rồi gọi đồ đệ đến đun lửa nấu lên. Đúng lúc đó, ông ta lại phải rời khửi ngôi đửn vì nhận được lời mời gấp từ một người bạn mà ông ta không thể từ chối.
Trước khi đi, ông ta nghiêm khắc dặn dò vị sư trẻ: Ngươi không được mở nắp trước khi ta trở lại. Sau khi vị sư già rời đi, chiếc nồi không ngừng tửa ra hương thơm vô cùng quyến rũ. Vị đồ đệ hết sức tò mò. Anh ta bử ngoà i tai lời dặn dò của sư phụ, gỡ cục đá xuống và mở nắp nồi. Hương thơm quyến rũ khiến anh ta không thể không bẻ một miếng ăn thử. Nó có nhiửu nước và rất ngọt. Thế là , quên hết mọi chuyện trên đời, vị sư trẻ ăn hết củ nhân sâm và nước canh ấy. Vừa lúc đó vị sư già trở vử. Vị đồ đệ quá lo sợ không biết phải là m sao bèn bử chạy vử phía ngôi đửn. Đột nhiên anh ta cảm thấy đôi chân của mình nhẹ bẫng, rồi bay lên trời. Khi vị sư già nhìn thấy cảnh tượng đó, ông ta biết rằng đồ đệ của mình đã ăn hết nhân sâm rồi....
Từ truyửn thuyết đi và o cấm cung
Với những mử¹ nữ quyửn quý trong cung mà chúng ta đã có dịp nhắc tới như Dương Quý Phi, Từ Hi Thái Hậu, nhân sâm ắt là một vị nhất thiết phải có trong kho y dược mử¹ phẩm của cung đình. Mỗi sáng sớm, Dương Quý Phi dùng một ít canh sâm. Cách nà y các triửu đại cung đình và các nhà già u có thường dùng. Theo y án của cung đình thời Thanh ghi lại, mỗi buổi sáng sớm, Từ Hi Thái Hậu đửu ngậm một chỉ nhân sâm. Thần nông bản thảo kinh liệt nhân sâm và o vị thuốc thượng phẩm, cho rằng nhân sâm có công năng bổ ngũ tạng, an tinh thần, sáng mắt, khai tâm ích trí. Hiện nay con người đã nghiên cứu và chứng minh rằng nhân sâm có thể nâng cao sức khửe, tăng sức đử kháng để đối phó với các loại bệnh tật, tăng cường khả năng thích nghi với sự thay đổi thời tiết. Nhân sâm thường được dùng với lượng ít để là m khửe cơ thể. Sách sử ghi lại rằng, hà ng ngà y, khi vua Tự Quang đến vấn an Từ Hi Thái Hậu đửu phải kiểm tra lại xem nhân sâm có đủ dùng hay không, từ đó mà suy thì biết cung đình đời Thanh coi trọng việc dùng nhân sâm thế nà o. Dương Quý Phi có lệnh cho người đem trân châu, bạch ngọc, nhân sâm nghiửn thà nh bột, trộn đửu với bột sắn dây thượng hạng, ban đêm dùng thoa mặt, thà nh một lớp mặt nạ, rửa đi trước khi đi ngủ.
Mặt nạ với bột thuốc hỗn hợp nà y không những có thể khử và ng, là m cho da dẻ tươi mịn, mửm mại và dồi dà o sức đà n hồi, mà còn có thể hút các chất bụi bẩn trong lỗ chân lông và tế bà o chết trên da, là m sạch và duy trì da dẻ trắng nõn. Một nhân vật tiêu biểu nữa cũng coi nhân sâm là vị thuốc là m đẹp không thể thiếu, đó là Nhân Duệ Vương Hậu ở xứ Cao Ly. Truyửn rằng và o năm 1052, thê tử của Văn Tông (1019- 1046, trị vì 1046-1083) - quốc vương thứ 11 của Cao Ly (Triửu Tiên) là Nhân Duệ Vương Hậu (In-ye Wanghu). Nà ng là con gái trưởng của Thượng thư Bộ Lễ Lý Tử Uyên (Yi Jayeon). Ngà y được tuyển là m vương hậu, nà ng không khửi lo lắng bất an trước việc là m quen từ đầu với các phép tắc luật lệ trong cung, khiến cho nà ng mất ngủ, nước da trắng tinh như ngọc trở nên xanh tái. Vì quá căng thẳng và áp lực mà da mặt nà ng mọc mụn, để lại những vết nám, sẹo.
Tình trạng nà y khiến cho Bình Kính Đại Phi rất lo lắng tìm cách để Nhậm Duệ khoan tâm, bèn dùng bí thuật chế ra phương thuốc cấp cứu là n da đem đến vương thất cho nà ng, đó là một lọ cao bảo vệ da. Đương nhiên, thà nh phần công hiệu nhất trong đó chính là nhân sâm Cao Ly.
Giải mật bí thuật đẹp da nhử nhân sâm
Công hiệu là m đẹp da của nhân sâm từ lâu đã được giới học thuật uy tín khẳng định, trong nhân sâm có thà nh phần rất công hiệu là sanopin. Saponin là một glicozit tự nhiên thường gặp trong nhiửu loà i thực vật, chính thà nh phần nà y là m nên giá trị của nhân sâm. Sâm cà ng có nhiửu thà nh phần nà y thì cà ng tốt. Vì vậy, dù có nhiửu nước trên thế giới trồng sâm nhưng sâm của Hà n Quốc và Triửu Tiên được đánh giá là tốt nhất. Trong sâm tươi có khoảng 10 thà nh phần saponin nhưng sau khi qua các công đoạn sấy khô thà nh hồng sâm và bạch sâm, nhân sâm Hà n Quốc có thể có tới 35 thà nh phần saponin. Nhân sâm được xếp và o loại đầu tiên trong 4 loại dược liệu quý của Đông y, đó là sâm, nhung, quế, phụ. Nhân sâm có tên khoa học là (Panax ginseng C. A. Mey.), họ nhân sâm (Araliaceae), họ (ngũ gia bì). Trên thực tế do cách chế biến khác nhau, người ta có được các sản phẩm chế của nhân sâm khác nhau, như hồng sâm, bạch sâm, đại lực sâm... Nhân sâm được Đông y ghi và o loại "thượng phẩm", nghĩa là có tác dụng tốt mà không gây ra độc tính, được ghi và o đầu vị của dòng "bổ khí" với những công năng tuyệt vời: đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân, định thần, ích trí...
Người lớn, có thể dùng riêng, ngà y 6 - 8g, dưới dạng thuốc hãm, thuốc sắc, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác: nhân sâm 8g; bạch truật, bạch linh, cam thảo, mỗi vị 4-6g, ngà y một thang, uống liửn 2-3 tuần lễ. Cũng có thể sử dụng dưới dạng rượu sâm (40g sâm, thái lát mửng ngâm trong 1 lít rượu trắng 30-35 độ trong 3 - 4 tuần là có thể dùng được. Tiếp tục ngâm lần 2 với 0,5 lít rượu trong 2-3 tuần lễ nữa). Ngà y có thể dùng 2 - 3 lần, mỗi lần 30 -50ml. Uống trước các bữa ăn, hoặc và o các buổi tối. Với trẻ em gầy còm chậm lớn, yếu mệt, biếng ăn, có thể dùng với lượng nhử hơn, 2 - 4 g/ngà y, dưới dạng thuốc hãm. Tuy nhiên, khi sử dụng nhân sâm cần có những lưu ý đặc biệt, nhất là với núm rễ của củ sâm (còn gọi là lô sâm). Để giữ được các hoạt chất khi chế biến và để tạo dáng cho nhân sâm (giống như cái đầu người), người ta đã giữ nó lại. Lô sâm, không có tác dụng bổ mà còn gây ra cảm giác buồn nôn.
Do đó cần cắt bử đi, trước khi sử dụng. Người có các triệu chứng đau bụng thuộc "thể hà n", đau bụng "tiết tả", tức đau bụng đi ngoà i, đầy bụng, trướng bụng..., nếu dùng nhân sâm sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Ngoà i ra, những người cao huyết áp cũng không nên dùng nhân sâm; những người hay mất ngủ tránh dùng sâm và o buổi chiửu và buổi tối. Lúc uống nhân sâm không nên uống trà và ăn củ cải.