Tác giả - tác phẩm

Sự đằm thắm trong thơ Nguyễn Thị Hồng

Hoàng Liên Sơn 06:08 07/06/2023

Sinh năm 1948 với hơn 50 năm sáng tác, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng vừa ra mắt bạn đọc tập sách mới nhất là “Thơ tuyển Nguyễn Thị Hồng” vào đầu năm 2023. Trước đó, các tập thơ của chị đã được xuất bản như “Em ra đi”, “Gọi thu”, “Biển đêm”, “Những bông hoa thiên sứ”, “Cuộc bàn giao vĩnh cửu - hồn khèn”. Khi cầm cuốn sách trên tay, tôi đã có dự cảm không sai về một không khí thơ đằm thắm, trong lành ở hơn trăm bài thơ với gần 50 năm sáng tác.

tap-tho-nguyen-thi-hong.jpg

Tuổi xuân

Sinh ra ở một xã thuần nông của huyện Hưng Hà, quê lúa Thái Bình, thật dễ hiểu khi tuổi xuân vất vả của chị gắn bó với cánh đồng. Tuy nhiên những mỹ cảm riêng có ở người làm thơ đã chớm xuất hiện với từ gót hoa: “Mùa này đồng rạ quê ta/ Nứt đồng nứt cả gót hoa làm đồng” (Đừng như chuối chín mẹ ơi…).

Như nhiều nhà thơ cùng thời, Nguyễn Thị Hồng không cách tân mạnh mẽ về hình thức, nhưng thỉnh thoảng cũng xuất hiện những điều chỉnh nho nhỏ rất nhuần nhuyễn; ví dụ cái “hun hút” thường sẽ tiếp tục để tả rõ hơn về ngõ thì được chuyển sang tả nụ hôn: “Ngõ xưa nhỏ lắm và sâu lắm/ Hun hút nụ hôn tuổi đôi mươi” (Về La Khê). Trong thanh xuân của chị, đời sống vật chất tinh thần của con người có thể chưa nhiều bộn bề phức tạp, nhưng lại là thời chiến, vì vậy: “Tuổi thanh xuân/ đẹp tươi/ và mất mát” (Với Exenhin 1).

Nhớ tình xưa là đặc điểm nổi bật của nữ giới. Chị cũng không là ngoại lệ: “Dẫn em về tuổi sim chín đồi xưa/ Tuổi đinh ninh sim tàn tình tím mãi/ Tuổi bất ngờ tình qua sim ở lại/ Mà suốt đời tiếc mãi một mùa sim” (Thu). Chữ “sim” xuất hiện ở cả bốn câu thơ liền nhau, nhưng không theo kiểu một điệp từ; cùng với chữ “tình” tạo một cảm giác xoắn bện như một vòng lặp khiến người trong cuộc dường như không thể dứt ra nổi nỗi tiếc tình dang dở. Hãy chú ý câu thứ hai và ba trong trích đoạn trên, cho thấy sự thay đổi nhanh đến chóng mặt, từ “đinh ninh” tới “bất ngờ”; từ “tình tím mãi” tới “tình qua”. Lối thao tác chóng mặt này không có nhiều trong thơ thời đó.

“Gái nhớ tình xưa” đã đành kinh điển rồi, sự mạnh mẽ ở đây là gái còn muốn trai cũng nhớ như mình: “Trước khi cầm lấy tay nàng/ Ôm vào lòng hãy nhớ rằng anh ơi” (Mai sau). Một sự ích kỷ đáng yêu bởi cũng vì yêu mà ích kỷ! Vậy chị đã yêu như thế nào? Chị đã yêu như con cuốc nhớ bạn mà quên cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp vẫn bao quanh: “Ngày thì nắng giãi bên thềm/ Đêm thì trăng trải khắp miền trần gian/ Điều gì để cuốc thở than/ Thì ra cuốc nhớ bạn vàng cuốc thôi” (Tiếng cuốc). Và tình yêu ấy không chấp nhận những giới hạn nhỏ nhoi: “Không thể đem biển xanh/ Với bao la khát vọng/ Đựng vào một cốc xinh/ Trên mặt bàn yên tĩnh” (Lại nói về giới hạn). Và nếu vì phá vỡ những giới hạn mà nó đổ vỡ thì người con gái cũng luôn có thủy có chung, ít nhất là trong tâm tưởng và tư tưởng: “Có thể hai chúng mình/ Không gần nhau được nữa/ Nhưng anh ở trong em/ Là mặt trời rực rỡ”(Lại nói về giới hạn).
Tôi thường nhoẻn cười thú vị khi bắt gặp nhân vật trữ tình bộc lộ mình một cách tự nhiên, ở đây là lộ giới tính nữ: “Chỉ/ nước mắt/ ngược đời/ tưới/ cây tình/ đang tươi/ thành héo” (Lệ thường). Nhà thơ ơi, “đàn bà chỉ nhớ người đàn ông khiến cho mình cười, đàn ông chỉ nhớ người đàn bà khiến cho mình khóc”. Với người đàn ông, khi anh ta khóc cây tình có thể mới thực sự từ héo thành tươi!

Quê hương và mẹ

Cấu trúc “cầu cho” rất sẵn trong ca dao, truyện thơ rồi. Sự thừa kế phổ biến, nên một mảy sáng tạo cũng rất đáng ghi nhận, trân trọng. Ở đây là cụm từ “lạnh thì lạnh ít”: “Cầu cho mưa thuận gió hòa/ Lạnh thì lạnh ít mẹ già đỡ run” (Đừng như chuối chín mẹ ơi…). Dù là vì mẹ mà cầu, cũng cần tiết chế chứ không thể cầu “không lạnh” được! Đấy là khi mẹ còn, chứ lúc mẹ mất thì: “Bây giờ biết Mẹ ở đâu/ Ở đây chỉ nắm cỏ rầu khôn nguôi/ Lời rằng nước mắt chảy xuôi/ Cầu cho nước mắt ngược đời chảy lên” (Mẹ). Dẫu vẫn là nước mắt thôi, nhưng “ngược đời chảy lên” cũng hơn không còn một chỉ dấu nào của sự giao cảm nữa.

Nhà thơ yêu quê hương không phải với tình yêu sáo mòn giả tạo. Chị biết rõ từng yếu tố cấu thành tình yêu có cả phần bất toại nguyện: “Ta có yêu sự lầy lội không/ không/ ta có yêu con đường lầy lội không/ có” (Con đường lầy lội). Tình yêu ấy đã vượt lên trên cái độc đầu tiên trong tam độc: tham. Chị yêu sâu sắc trong sự tỉnh thức, biết rõ vì sao mà mình yêu: “Bởi vì/ Trên con đường này/ Đã in dấu chân những người thân yêu nhất” (Con đường lầy lội). Trong tình yêu quê có cả niềm hoan hỉ cùng nỗi đau của đời sống đương đại phức tạp hơn xưa; và cũng có nghĩa là yêu trong tỉnh thức: “Có người giỏi/ thành nhân vật/ tiêu biểu/ năm 2000/ Còn/ Em/ Cường/ đã – chết – vì/ Bệnh AIDS” (Trai làng).

Ánh sáng tâm linh

Ngay từ bài thơ đầu tiên của tập thơ, sự giác ngộ của chị đã chớm xuất hiện: “Mới hay là cõi vô thường/ Mùa yêu chưa thỏa – mùa hương qua rồi” (Mùa yêu chưa thỏa). Chị ngộ về sự bất toại nguyện, về sự vô tình của thiên nhiên trước thành trụ hoại diệt của con người: “Mai sau dẫu có một ngày/ Tuổi tàn – có chợ hoa này hồi xuân” (Chợ hoa ngày Tết). Chị biết chấp nhận quy luật hoại – diệt ấy, và cao hơn, trân trọng nâng niu những gì chỉ đơn giản là gợi nhớ thanh xuân của mình. Tuyệt vời hơn nữa, lại là một tình yêu đến nửa say, nửa ngây nhưng vẫn như thực tuệ tri: “Người thì nửa tỉnh nửa say/ Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời/ Mùa thu ơi đẹp vừa thôi/ Giăng chi khoảng cách giữa đời và mơ”(Thu cảm).

Chị thấy phận người trong phận chim, khi bị lừa dối bởi chính lòng tham, độc thứ nhất trong tam độc, của mình: “Thèm ánh sáng giữa vùng bóng tối/ Đâu phải là tội lỗi/ Mà giờ đây/ Cùng nhau chen chúc trong chiếc lồng” (Nhân chứng kiến cuộc săn bìm bịp). Chị biết con người tất yếu cần tồn tại, nhưng không nguôi khắc khoải về thân phận của những loài hữu tình mất mạng để con người được sống: “Biết người thả lưới quăng chài/ Chỉ mong cho cá đừng vơi khoang thuyền/ Mà lòng vẫn chẳng bình yên/ Nhìn đàn cá mắc lưới êm của người” (Nỗi niềm). Nhà thơ ơi, chị hãy yên lòng bởi thiền sư – thi sĩ Thích Nhất Hạnh trong bài thơ “Con cá dung thông” đã thác lời cá mà nói với con người rằng: “Để mỗi khi sa vào lưới/ Được chết thong dong/ Không hận thù, không tuyệt vọng/ Bởi vì tôi biết/ Sự sống làm bằng sự chết/ Cái có làm bằng cái không/ Mọi loài tương tức/ Tôi và em dung thông.”

Trong một bài thơ khác của chị, đọc qua thấy đẫm bi quan với chữ “không”: “Một mình trong cả tâm linh/ Nào ngờ ngay cả một mình cũng không” (Biển đêm). Nhưng ngẫm kỹ thấy mừng, bởi chị đã đi đến một đại ngộ: ngộ ra tính không của từ một mình, của sự sở hữu; và lờ mờ ý một ý thức về xây dựng hải đảo tự thân (một mình). Chị cũng thấy quá trình ấy cần sự tinh tấn của cả thân và tâm: “Nhưng tâm hồn thương mến/ Lại nằm trong thân ta/ Chiều cao và cân nặng/ Đếm đong rất thật thà” (Tâm hồn).

Tiếng nói trữ tình công dân

Là một nhà thơ chuyên nghiệp đầy trách nhiệm, chị đã nhạy cảm nhận ra và cụ thể hóa một khái niệm trừu tượng về tính chất khác thường của vùng biên. Ở đấy không có chỗ cho lấp lửng mơ hồ hay ba phải: “Cây biên giới thật xanh/ Người biên giới thật thẳng” (Biên giới). Người và đất cùng tự quên mọi chiến công đã qua để luôn sẵn sàng giải quyết các nguy cơ mới: “Em tự quên chính mình/ Những phút thành dũng sĩ/ Như núi rừng tự quên/ Những phút thành chiến lũy” (Bình dị).

Chị là công dân của một nước Việt Nam thống nhất, nhưng cũng đầy đủ ý thức công dân toàn cầu. Và hơn cả công dân toàn cầu, chị còn là công dân vũ trụ trong trục thời gian tính bằng thiên niên kỷ: “Một ngàn năm/ Mấy ngàn năm/ Chẳng lẽ thời gian không giúp gì ư/ Cho loài người nghĩ suy về nhân tính/ Cho loài người tiến lên dù chút ít/ Lòng yêu thương con người!/ Loài người sẽ đi về đâu/ Hay kể cả khi họ tìm được hành tinh khác để sống/ Họ sẽ đem theo gì/ Chiến tranh ư?/ Tôi ngờ lắm!!!” (Một chút bi quan hay Những hài cốt ở Hoàng thành cổ). Cái “chút ít” tương phản mạnh mẽ với cái “ngàn năm”!

Tự khúc - dấu hiệu báo trước của trường ca

Nhà thơ Phùng Văn Khai tâm sự với tôi rằng mã thơ Nguyễn Thị Hồng nằm trong bài “Tự khúc” này. Tôi đã gặp lại cái tình mênh mang trong veo thời thanh xuân, nhớ quê và nhớ mẹ của người viết. Tôi cũng gặp lại nữ tính ở đây, kiểu“đánh Sơn Tây chết cây Hà Nội”: “Lòng không còn vô tư như tiếng trống/ Mắt ai nhìn xao động mùa xuân… (I). Và gặp lại trách nhiệm công dân khi chị lên với vùng cao, chiêm nghiệm cả cái hay và dở ở đó: “Cối đá xoay nặng nề chậm chạp/ Như cuộc đời chậm chạp đổi thay/ Tôi gặp những tấm lòng trong sạch/ Sự trong sạch tạo ra lửa/ Giữ cho bếp tâm hồn không lụi tắt ánh hồng/ Dù bến nước cuộc đời khi đục khi trong” (II).

“Và tôi gặp nấm mồ người liệt sĩ/ Những xóm làng san sát bát hương” (II) - Từ san sát thường dùng để mô tả cảnh trù phú giàu có nào đó nhưng ở đây, chị đã thay đổi cách dùng chính xác một cách đau xót! Là thơ mà dường như cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của chị: “Ôi con người nhỏ nhoi hạt cát/ Lại cũng như hạt cát chẳng có gì/ Ngoài chính mình trần trụi với thiên nhiên” (II). Không hờn oán, nhưng chị cần minh định những thiệt thòi oái oăm ấy của thời chiến: “Hầm trú ẩn che luôn thời má phấn” (II).

Chị “như thực tuệ tri” cái ngoài mình, trong mình. “Cám ơn người tạo nên con như thế/ nhỏ nhoi một hạt sa bồi/ Mỗi mùa lũ cùng vô vàn hạt khác/ Vật vã rồi thành bờ bãi sinh sôi” (II). Khi ví mình cũng tựa như một hạt sa bồi, chị đã ý thức được tính không (không bản ngã, không tự tính) của mình cùng lẽ tương tức, duyên sinh và sẵn sàng cho mọi cuộc chu du vô tận. Và chị đã khép lại bài thơ trường thiên này bằng một cách tân hình thức tự nhiên, nghĩa là xuất phát từ nhu cầu biểu đạt ý tưởng. Khát vọng thấy lại ngày xưa của mình đã khiến khái niệm không gian hàm chứa biểu tượng thời gian; khát vọng gặp lại người thân khiến khái niệm thời gian hàm chứa biểu tượng không gian: “Dường như ở phía chân trời/ Mút không gian ấy cuộc đời ngày xưa/ Và trong dòng chảy vô bờ/ Của thời gian/ có/ bến chờ/ người thân…” (III).

Cấu trúc chặt chẽ, không gian và thời gian khoáng đạt, nội dung phong phú với ít nhiều kịch tính của bài trường thiên này là những dấu hiệu báo trước của trường ca “Hồn khèn” mà chị đã hoàn thành trong thời gian dài đến khó tin là 30 năm!

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Nhạc sĩ Quốc Dũng tác giả "Bài ca Tết cho em" qua đời
    Nhạc sĩ Quốc Dũng tác giả của "Em đã thấy mùa xuân chưa?", chồng ca sĩ Bảo Yến, đã qua đời ngày 24/9, do bệnh già, thọ 72 tuổi.
  • Góc nhìn đa chiều về lễ vật trong hội làng Thăng Long - Hà Nội
    Từ buổi ban sơ dựng nước đến ngày nay, Thăng Long - Hà Nội mang trong mình bao trầm tích văn hóa, lịch sử. Góp thêm những góc nhìn đa chiều, cuốn sách “Lễ vật trong hội làng Thăng Long - Hà Nội” (Nxb Hà Nội, 2023) giúp người đọc khám phá những giá trị văn hóa truyền thống phong phú, đặc sắc của mảnh đất kinh kỳ.
  • Lắng nghe, lắng nghe… Thanh Quế
    Tôi quen Thanh Quế khoảng giữa thập niên 60 thế kỷ trước, ở nhà Trúc Thông. Hai anh cùng học trường Đại học Tổng hợp. Thanh Quế khoa Sử, Trúc Thông khoa Văn. Chúng tôi hồi ấy mới có thơ đăng báo được vài ba năm, ít biết nhau. Trúc Thông yêu cái trong trẻo manh nha của cảm xúc Thanh Quế ngay từ dạo ấy. Anh giới thiệu trước với tôi về thơ Quế. Tôi nhớ hai câu. Hai câu chơ vơ mà nhớ mãi: “Đàn mình kẻ khác cầm dây/ Nặng tay gào thét nhẹ tay khóc thầm”.
  • Có một Hà Nội lãng mạn và nhân hậu trong thơ Nguyễn Phan Quế Mai
    Trong trái tim mỗi người, Hà Nội luôn đẹp theo những cách khác nhau. Nhiều nhà thơ đã viết về Hà Nội với một tình yêu mãnh liệt, sự biết ơn và tấm lòng gắn bó với thủ đô. Trong số đó có Nguyễn Phan Quế Mai. Đọc thơ chị, độc giả hình dung đầy đủ về một Hà Nội lãng mạn và nhân hậu, về hồn cốt của vùng đất ngàn năm văn hiến. Hà Nội với vẻ đẹp của tự nhiên, sự thanh lịch và nhân hậu của con người cùng những trầm tích văn hóa đã nuôi lớn tâm hồn của Nguyễn Phan Quế Mai, đánh thức những chữ nghĩa trong chị và từ đó những vần thơ đẹp về đất và người Hà Nội được sinh thành
  • Người dệt văn trên cánh sóng
    Sau tập tản văn “Tháng Mười bẻ nắng sau lưng chiều” (Nxb Văn học, 2020) vào tháng 9 này, tác giả Hồ Huy lại tiếp tục ra mắt bạn đọc tập tản văn "Thấp thoáng đời nhau". Theo nhà văn Lê Minh, quản trị viên của diễn đàn Tản Văn Hay đồng thời là bạn văn tri kỷ của tác giả thì “Thấp thoáng đời nhau” của Hồ Huy chính là sự lựa chọn sáng suốt của những người yêu thích tản văn. Còn tôi, khi thao thức với những trang văn của anh, tôi lại hình dung anh như người dệt văn trên cánh sóng.
  • Nữ đạo diễn thiết tha với nghề, với đời
    Trong đội ngũ đạo diễn của thời kỳ Đổi mới, Việt Linh nổi lên như một nữ đạo diễn tài năng, bản lĩnh, có chính kiến và cá tính sắc sảo. Nhà nghiên cứu điện ảnh người Anh, Carrie Tarr đã nhận định về Việt Linh rằng: “Có thể coi Việt Linh - nữ đạo diễn, tác giả những bộ phim tầm cỡ quốc tế - là một hiện tượng của điện ảnh Việt Nam. Cuộc đời của bà trải dài theo lịch sử thăng trầm của xứ sở, từ thời kỳ chiến tranh đến khi giành được độc lập”(1).
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • “HỘP NGHỆ THUẬT” - Số 26: Nghệ thuật sân khấu, từ truyền thống đến hiện đại
    Ngày Sân khấu Việt Nam (ngày giỗ Tổ sân khấu) 12/8 âm lịch hằng năm là dịp để văn nghệ sĩ trên mọi miền đất nước tưởng nhớ và tri ân các vị tổ nghề, các thế hệ nghệ sĩ đã có nhiều đóng góp cho nền nghệ thuật sân khấu nước nhà. Podcast “Hộp nghệ thuật” số này của Tạp chí Người Hà Nội có dịp được gặp gỡ NSND Trần Quốc Chiêm, Chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Hà Nội để cùng trò chuyện về chủ đề “Nghệ thuật sân khấu, từ truyền thống đến hiện đại”.
  • Trẻ em Thủ đô vui Tết Trung thu cùng “Sắc màu”
    Nhân dịp Tết Trung thu, Bảo tàng Hà Nội cùng Câu lạc bộ mỹ thuật Siêu nhân nhí phối hợp tổ chức triển lãm tranh với chủ đề “Sắc màu”.
  • Lập Quy hoạch Thủ đô Hà Nội: Tiếp biến “di sản quy hoạch”
    Hà Nội đang thực hiện cùng lúc nhiều nhiệm vụ quan trọng, mang tính đột phá, trong đó có việc lập “Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Quá trình lập Quy hoạch Thủ đô đang đến giai đoạn nước rút, quan trọng nhất.
  • Xu hướng khách du lịch đến Huế bằng tàu biển ngày càng tăng mạnh
    Du lịch tàu biển ở Thừa Thiên – Huế có xu hướng phát triển mạnh trong những năm gần đây và trong 7 tháng năm 2023 đón 13.300 khách đến Cảng Chân Mây.
  • Hà Nội và Quảng Châu tăng cường hợp tác thương mại, du lịch
    Sáng 26-9, tại thành phố Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Đông, tiếp tục chương trình chuyến thăm và làm việc tại Trung Quốc, đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố và Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Hà Nội đã dự, chứng kiến lễ ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa UBND thành phố Hà Nội và chính quyền thành phố Quảng Châu.
Đừng bỏ lỡ
  • Sân khấu truyền thống Huế có thêm nhiều phương thức hoạt động mới
    Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Hội Nghệ sỹ Sân khấu tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức kỷ niệm Ngày Sân khấu Việt Nam (12/8 Âm lịch).
  • Hoa hậu H'Hen Niê được trao Bằng khen "Nghệ sĩ vì cộng đồng"
    H'hen Niê được trao Bằng khen "Nghệ sĩ vì cộng đồng" và Bằng khen cho văn nghệ sĩ tích cực từ Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam TP.HCM như sự công nhận cho đóng góp đầy tích cực.
  • Cốm xào - món ngon tròn vị thu Hà Nội
    Cốm là “một thức quà thanh nhã và tinh khiết”, là đặc sản của riêng Hà Nội. Trong tâm tưởng của người Hà Nội, mùa thu bao giờ cũng gắn liền với cốm và những món ăn tinh tế từ món quà thu xanh như ngọc lưu ly này.
  • Hồ Quỳnh Hương cùng dàn sao hội tụ trong đêm nhạc đặc biệt
    Đêm nhạc "Những ngôi sao Hà Nội" diễn ra vào 20h tối 28/9 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, quy tụ dàn nghệ sĩ tên tuổi thành danh từ cuộc thi "Tiếng hát Hà Nội".
  • Sôi động cuộc thi âm nhạc dành cho học sinh phổ thông
    Cuộc thi Rap Olympia mùa 1 được tổ chức từ ngày 23/9 đến 13/10, với mong muốn tạo ra một sân chơi về nghệ thuật cho tất cả các bạn học sinh trung học phổ thông có niềm đam mê về âm nhạc.
  • Ốc Trung thu - ẩm thực cổ truyền Hà Nội
    Trong dịp Tết Trung thu, ngoài mâm cỗ trông trăng với các sản vật đặc trưng của mùa thu và bánh nướng, bánh dẻo, cỗ ngọt cho con trẻ, người Hà thành còn có nhiều món ăn độc đáo từ ốc vào dịp Trung thu như: ốc nấu thả, ốc hấp lá gừng, ốc xào khế, ốc bung chuối đậu, ốc luộc.
  • Xiếc và rock kết hợp trong “Thiên thần lên núi”
    Nghệ sĩ nhân dân (NSND) Tống Toàn Thắng và Liên đoàn Xiếc Việt Nam tiếp tục gây bất ngờ khi công bố chương trình xiếc và rock mang tên “Thiên thần lên núi” với sự tham gia của ban nhạc Ngũ Cung.
  • Nhiều hoạt động kỷ niệm 69 năm Ngày Giải phóng Thủ đô
    Nhân kỷ niệm 69 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2023), các đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa Thể thao Hà Nội sẽ tổ chức nhiều hoạt động trang trí, cổ động trực quan và chương trình nghệ thuật chào mừng.
  • Một dạng từ láy
    Dần dần, từ từ, thường thường, đều đều, mãi mãi, nhanh nhanh, hay hay, luôn luôn… là những cặp từ láy đôi trùng lặp. Hầu hết từ láy đôi trùng lặp đều có chức năng diễn tả nhịp độ, tần suất sự việc đang trải qua trong tiến trình thời gian. Những từ chỉ dùng một tiếng thì nghĩa sẽ khác khi dùng cả hai (từ láy), như vậy, sự lầm lẫn, thiếu chính xác khi sử dụng ít xảy ra. Riêng hai cặp từ mãi mãi và luôn luôn, khi nào chỉ dùng một từ, khi nào dùng cả từ láy và điều cần bàn, nếu muốn cho lời nói, câu văn chuẩn xác.
  • Công diễn vở opera Việt - Nhật “Công nữ Anio”
    Tối 22/9, tại Nhà hát Lớn Hà Nội diễn ra buổi công diễn đầu tiên vở opera “Công nữ Anio”, nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản (1973-2023.
Sự đằm thắm trong thơ Nguyễn Thị Hồng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO