Nguyễn Bá Xuyến – người giỏi thơ quốc âm
Nguyễn Bá Xuyến sinh năm Kỷ Mão (1759) tại thôn Đại Hành, xã Hạ Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội).
Ông mồ côi cha từ nhỏ, trải qua những năm tháng tuổi thơ khốn khó, sớm phải gánh vác gánh nặng gia đình. Trước năm 30 tuổi, ông từng “bôn ba” dưới trướng của nhiều tướng, nhưng trướng nào cũng không ấm chỗ. Ông từng có thời gian theo các nhóm chống Tây Sơn song cũng không có kết quả gì. Đến năm 1793, cuộc gặp gỡ với Đặng Trần Thường đã làm thay đổi cuộc đời Nguyễn Bá Xuyến. Ông đã quyết định cùng Đặng Trần Thường vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh. Từ đây, hoạn lộ của Nguyễn Bá Xuyến khá suôn sẻ. Ông lập nhiều công lao và được ban thưởng, từng giữ chức Án phủ sứ phủ Hoài Đức năm 1802. Trong thời gian giữ chức quan này, Nguyễn Bá Xuyến không chỉ tham gia trấn áp giặc cướp ở vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, mà còn có công lớn trong việc xây dựng, củng cố Bắc thành hưng thịnh và giàu đẹp hơn.
Về cuối đời, ông được phong tước Xuyến Ngọc hầu và có cơ hội mở rộng quan hệ với nhiều bạn bè. Năm 1829, ông lâm trọng bệnh và qua đời, hưởng thọ 70 tuổi.
Về văn nghiệp của Nguyễn Bá Xuyến, tuy không có điều kiện học hành, và tự nhận là người “lỗ mãng” nhưng ông đã để lại một số lượng sáng tác không nhỏ, gồm một tập hồi kí, 19 bài văn tế, 10 bài thơ luật chữ Hán, khoảng 50 bài thơ Đường luật bằng Quốc âm, 26 bài ca, từ khúc, hát nói và có thể cả một bài phú. Văn thơ của ông không thật đặc sắc nhưng ít nhiều vẫn có nét riêng, và có những phần có giá trị đặc biệt, góp phần làm phong phú thêm diện mạo văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - XIX.
Cuốn sách chép tay các sáng tác của Nguyễn Bá Xuyến còn lại đến nay có tên đầy đủ là Hoàng triều Công thần Đa sĩ Nguyễn Án phủ sứ truyện. Bố cục cuốn sách như sau: hai phần đầu là hồi kí, thơ văn do Nguyễn Bá Xuyến viết, và phần cuối - Nguyễn công thần hành trạng tục biên - là do con cháu viết.
Phần hồi kí viết bằng chữ Hán giống như một bản tự thuật về những mốc chính trong cuộc đời Nguyễn Bá Xuyến từ nhỏ đến trước 10 năm cuối đời. Đặc điểm nổi bật nhất của tập kí này là văn phong “giản dị, không trau chuốt, không làm văn, tôn trọng sự kiện mà không lạm dụng tâm lí chuyển tải đạo”, “vẻ đẹp tập hồi kí của ông lại chính ở sự thật thà, thô ráp, có sao nói vậy... tạo được sự gần gũi, tin cậy cho người đọc” (Trần Thị Băng Thanh, Xuyến Ngọc hầu tác phẩm, 2006). Đây cũng có thể xem là một đóng góp của Nguyễn Bá Xuyến đối với sự phát triển của thể loại kí văn học.
Tập kí bắt đầu bằng những dòng ngắn gọn kể về xuất thân của Nguyễn Bá Xuyến: “Tổ tiên ta vốn người thôn Đại Thành (...). Khi ta chưa đến tuổi thành niên thì cha đã mất (...). Từ năm Bính Ngọ (1786) về sau thời thế nhiều biến cố, ta phiêu linh khắp chốn giang hồ”; và kết thúc với sự kiện: “Ngày 4 tháng Giêng vâng mệnh vào hầu trong Xuân Kinh (năm Nhâm Ngọ 1822)”... Những bước thăng trầm trong cuộc đời Nguyễn Bá Xuyến, từ tuổi thơ khốn khó đến những ngày đầu khởi nghiệp và quãng thời gian ông phụng sự chúa Nguyễn Ánh đều được khắc họa lại trong tập kí. Bên cạnh đó, tập kí còn lưu giữ lại khá nhiều chi tiết hiện thực của lịch sử, chẳng hạn về những năm cuối của cuộc giao tranh giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn, hay các cuộc nổi dậy của nông dân Bắc Hà đầu thời Nguyễn. Bàn về tập văn hồi ký nói trên, Trần Thị Băng Thanh xác định: “Dù là ở mức sơ giản nhưng những trang ghi chép của Nguyễn Bá Xuyến có thể coi như một hồi kí chiến trận, đó là một điều mới mẻ nữa mà trong văn học trung đại trước Nguyễn Bá Xuyến chưa thấy có” (Xuyến Ngọc Hầu tác phẩm, 2006). Hồi kí của Nguyễn Bá Xuyến, do vậy, ngoài giá trị văn học, còn chứa đựng giá trị tư liệu lịch sử.
Trong sự nghiệp trước tác của Nguyễn Bá Xuyến, bộ phận sáng tác đặc sắc nhất, tiêu biểu nhất là văn tế Nôm và ca khúc. Trước hết, về văn tế, đây là thể loại khá công thức và thường được viết bằng chữ Hán, trong khi, văn tế của Nguyễn Bá Xuyến lại được viết bằng chữ Nôm, số lượng lên tới gần 20 bài, dành cho nhiều loại đối tượng khác nhau. Với những người lính tử trận, Nguyễn Bá Xuyến có bài Văn tế trận vong quân sĩ viết bằng những lời lẽ thiêng liêng, nuối tiếc: “Đạo thày tớ dầu đắng ngọt có nhau; khi vui nên lại nhớ khi thương; thương vì cũng phận truy tùng, cùng ưu hoạn lại chẳng cùng an lạc (...). Công lao cũ bây giờ chưa trả được, kẻ mất cũng xem bằng kẻ tại, tấm lòng đây đà tạc khoán thư riêng; tình nghĩa xưa ai nấy dễ quên ru, thân này thốt thiệt đến thân sau, nghìn năm nữa lai vầy ngư thủy khác” (Xuyến Ngọc Hầu tác phẩm, 2006).
Với thập loại chúng sinh, Nguyễn Bá Xuyến cũng có bài văn tế đầy thương xót: Thương thay mười loại chúng sinh, bãi sương trắng để mưa tan gió sảy; trải biết mấy thu tang hải, che cỏ xanh mà lửa tắt hương tiêu (Tế chúng sinh văn - Văn tế chúng sinh).
Ngay cả với người vú nuôi của vợ thứ quê ở Tây Lĩnh, Nguyễn Bá Xuyến cũng làm văn tế bày tỏ nỗi ngậm ngùi: Bỗng xe hạc vội vàng, chẳng gắng lấy ít nhiều năm nữa, vú từ đây đường vãng phản đã không rồi, mà non tây cách diễn, nào kịp trao mảy chút nhời chi, con từ ấy nỗi ai tư khôn dứt bỏ (Tây Lĩnh thứ thất nhũ mẫu tế văn Văn tế người vú nuôi của vợ thứ quê ở Tây Lĩnh).
Văn tế của Nguyễn Bá Xuyến giàu cảm xúc, ngôn ngữ gần gũi, “thuần Nôm” song không kém phần thiêng liêng, trang trọng, đặc biệt ông rất ít khi sử dụng các từ Hán. Có thể nói như Trần Thị Băng Thanh rằng, “văn tế Nôm của Nguyễn Bá Xuyến cũng góp phần đánh dấu một bước “bình dân hóa” một thể loại văn chương bác học khiến nó được sử dụng rộng rãi hơn trong đời sống cộng đồng và cũng thể hiện sự phát triển của dòng văn học tiếng Việt, làm nền tảng cho văn học Quốc ngữ sau này” (Xuyến Ngọc Hầu tác phẩm, 2006).
Một bộ phận sáng tác nữa của Nguyễn Bá Xuyến rất được chú ý đó là những ca khúc, gồm 29 bài (3 bài trường thiên và 26 bài ca ngắn). Những bài hát nói này không có đầu đề, được chép liền nhau, gần cuối tập sách Công thần Nguyễn Án phủ sứ truyện.Đa phần các bài ca này thể hiện tinh thần phóng khoáng, ưa nhàn, không vướng bận vòng danh lợi. Nguyễn Bá Xuyến cũng có cái khảng khái của Đào Uyên Minh xưa:
Đào ái cúc,
Dư tắc ái liên...
Cúc hoa chi ẩn dật dã, liên hoa chi quân tử dã.
…Liên tối thị nê nhi bất nhiễm,
Tuế nguyệt vô cùng nhàn điểm kiểm,
Công danh hữu phận một thương lường.
(Đào Tiềm yêu cúc,
Ta thì yêu sen...
Cúc là kẻ ẩn dật trong làng hoa, sen là bậc quân tử.
...Sen đặc sắc nhất là ở trong bùn mà không nhiễm bẩn,
Năm tháng vô cùng, cứ thong thả mà đếm,
Công danh có phận chẳng tính toán được)
Có chút cậy tài, khoe tài tựa Nguyễn Công Trứ sau này:
- Ngã tài hữu dụng,
Do địa chung do thiên tướng có bàn chi.
(Trời đất sinh ra ta vốn đã có ý,
Trong cuộc đời có nơi nào là không thể gặp gỡ?)
- Phận nội sự bản ngô chi vũ trụ
(Mọi việc trong vũ trụ đều là phận sự của ta)
Có chút ngông nghênh:
Bất nhiên tuyệt lạp thăng thiên cù,
Bất nhiên minh kha du để độ.
An năng bất phú hựu bất quý,
Không tác ngang tàng nhất trượng phu.
(Nếu không thì bỏ ăn cơm gạo mà lên trên trời,
Nếu không thì đeo ngọc minh kha mà chơi đế độ.
Sao lại có thể không giàu không sang,
Không làm một kẻ trượng phu ngang tàng?)
Có chút phóng túng lãng tử:
Nhân sinh tại thế,
Toán lại danh lợi bất như nhàn.
Cầm kì thi tửu mấy giang san,
Đông phong diện đẳng nhàn thức đắc.
(Người ta ở trên đời,
Tính ra danh lợi chẳng bằng nhàn.
Đàn, cờ, thơ, rượu cùng với sông núi,
Mặt hóng gió xuân biết được là nhàn)
Tri túc tiện túc, đãi túc hà nhật túc,
Thâu nhàn tiện nhàn, hà nhật nhàn.
(Biết đủ tức là đủ, còn đợi cho đủ thì biết bao giờ mới đủ,
Biết nhàn tức là nhàn, còn đợi nhàn chưa biết bao giờ mới nhàn)
Có chút say sưa:
Tửu khát tư thôn hải,
Thi cuồng dục thượng thiên.
(Khát rượu thì nghĩ đến uống cả bể,
Thơ cuồng thì muốn lên trời)
Song dù say sưa, dù ưa hưởng lạc, dù phóng túng, thị tài, ở Nguyễn Bá Xuyến vẫn không mất đi phong thái nghiêm chỉnh của một trang nam nhi tự nhiệm.
Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh, các bài ca của Nguyễn Bá Xuyến có thể xem là thuộc thể hát nói ở giai đoạn “chưa thành thục, chưa thật định hình và còn mang tên là ca” (Xuyến Ngọc Hầu tác phẩm, 2006). Đến đây người ta có thể nối dài lược đồ lịch sử hát nói, từ đỉnh cao Nguyễn Công Trứ lùi về xa hơn có Nguyễn Bá Xuyến. Và nói đến hát nói, không thể không đề cập đến tên tuổi của Nguyễn Bá Xuyến cùng những đóng góp của ông tuy còn “thô sơ” nhưng lại có ý nghĩa khởi nguồn.
Các thể loại sáng tác của Nguyễn Bá Xuyến: Hồi kí, thơ ca và biền văn quốc âm hình thức không cầu kì, ngôn từ giản dị. Dù chỉ là ghi lại những chặng đường đời của mình “để khỏi quên lúc gian nan và để con cháu sau này ghi nhớ”, hay viết tế văn cho những người đã khuất, hoặc làm thơ ca để tỏ chí, vịnh cảnh, gửi tặng bạn bè, Nguyễn Bá Xuyến đều gửi gắm rất nhiều tình cảm. Không cần phải mượn đến những lời lẽ hoa mĩ để diễn đạt mà tình cảm, cảm xúc đó tuôn trào tự nhiên, hồn nhiên. Vì lẽ đó, thơ văn Nguyễn Bá Xuyến là thứ thơ văn dung dị, thành thực, không truy cầu tải đạo hay giáo điều. Chân dung Nguyễn Bá Xuyến qua thơ ca, hồi kí là con người sống trong “thời loạn”, có trách nhiệm với bản thân, với lý tưởng mình theo đuổi, đó cũng là con người có tài, có tình, luôn trăn trở suy nghĩ trước những nỗi hỉ nộ ái ố của cuộc đời, luôn chia sẻ nỗi đau với thập loại chúng sinh.
Điểm tên các danh nhân Hà Nội thế kỉ XVIII - XIX, Nguyễn Bá Xuyến không phải là cái tên được nhiều người biết đến, tài liệu về ông hiện cũng rất ít ỏi. Song với những đóng góp quan trọng của ông cho sự phát triển của thể loại hồi kí, văn tế và hát nói, cần có sự nhìn nhận và đánh giá xác đáng hơn về vị trí của ông trong nền văn học, văn hóa nước nhà./.
Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội