Văn hóa – Di sản

Trần Thái Tông – một hoàng đế anh hùng của Việt Nam, nhà thiền học, nhà thơ

Tạ Ngọc Liễn 30/10/2023 10:44

Trần Thái Tông, tức Trần Cảnh (1218-1277) vị vua mở đầu triều Trần (1226-1400), người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất 1258, nhà Thiền học và nhà thơ, có cuộc đời riêng đầy bi kịch.

Theo sắp xếp của Trần Thủ Độ, lúc ấy đang giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng, vua nhà Lý (do Lý Huệ Tông không có con trai nhường ngôi cho). Sau được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi, Trần Cảnh lên làm vua (miếu hiệu là Thái Tông), phong Chiêu Hoàng làm Hoàng hậu. Nhưng vì lấy nhau gần chục năm mà Hoàng hậu vẫn không sinh con, nên Trần Thủ Độ lại ép Trần Cảnh bỏ Lý Chiêu Hoàng, để lấy chị bà là Thuận Thiên, vợ Trần Liễu, anh ruột Trần Cảnh khi đang có mang. Trần Liễu căm phẫn nổi binh chống lại, song thế yếu phải xin hàng. Trần Thủ Độ định giết Trần Liễu nhưng Trần Thái Tông đã ra sức bảo vệ, sau đó lấy đất vùng Yên Sinh (thuộc huyện Đông Triều) cho Trần Liễu làm ấp thang mộc và phong là Yên Sinh Vương ở đất ấy.

Đức khoan dung không giết anh của Trần Thái Tông được Trần Dụ Tông (1341-1369), vua thứ bẩy của nhà Trần, làm một bài thơ ca ngợi rất hay:

Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông,

Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong.

Kiến Thành tru tử, An Sinh tại,

Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.

(Khai sáng cơ nghiệp nhà Đường và Đại Việt cùng là hai vua Thái Tông, Vua Đường xưng niên hiệu Trinh Quán, vua Việt niên hiệu Nguyên Phong. Kiến Thành bị giết chết, còn An Sinh thì sống, Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ khác nhau).

Trong bài thơ này, Trần Dụ Tông so sánh cái đức của vua Thái Tông nhà Đường ở Trung Quốc với cái đức của vua Thái Tông đời Trần ở Việt Nam qua sự kiện lịch sử Lý Kiến Thành, con cả Đường Cao Tổ được lập làm Hoàng thái tử (tức là sẽ được làm vua), song bị em là Lý Thế Dân (tức Đường Thái Tông) giết chết ở cửa Huyền Vũ (Huyền Vũ môn), còn Trần Thái Tông không giết anh là An Sinh vương Trần Liễu.

khang-chien-chong-nguyen-mong_1.jpg
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất dưới thời vua Trần Thái Tông. Ảnh VOV

Trần Dụ Tông quả là người có cái nhìn so sánh lịch sử sâu sắc và qua sự so sánh đã nêu bật được tấm lòng độ lượng khoan dung của Trần Thái Tông.

Bi kịch vừa kể trên xảy ra khi Trần Thái Tông ở độ tuổi 20 (1237) và vì quá đau lòng nên một đêm Trần Thái Tông bỏ kinh thành lên núi Yên Tử định đi tu. Trần Thủ Độ phải đem quần thần đến Yên Tử cương quyết mời Trần Thái Tông trở về Thăng Long tiếp tục công việc trị vì đất nước.

Hai mươi năm sau, Trần Thái Tông “tự làm tướng, đốc chiến đi trước xông pha giữa tên đạn” (Đại Việt sử ký toàn thư - Kỷ nhà Trần), đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất, trở thành người anh hùng trong lịch sử dân tộc. Sau khi chiến thắng quân Nguyên năm 1258, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con trai là Hoàng tử Hoàng, tức Trần Thánh Tông, lui về làm Thượng hoàng và chuyên chú vào việc nghiên cứu Phật học.

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Trần Thái Tông được người đời ví như một ngọn đuốc thiền học. Những tư tưởng sâu rộng về thiền học của Trần Thái Tông được thể hiện qua một số tác phẩm còn lại của ông như Bài tựa Thiền tông chỉ nam, Bài tựa Chú giải Kinh kim cương Tam muội, Lục thì sám hối khoa nghi. Tất cả đều được ghi lại trong sách Khóa hư lục, một tác phẩm Phật học quan trọng do Trần Thái Tông viết vào thời gian ông làm Thái thượng hoàng (1258-1277).

Khóa hư lục có nghĩa là ghi chép quá trình tu luuyện đạo Phật theo tinh thần kiên trì học tập nhưng không cố chấp để bị trói buộc bởi những giáo điều, nhằm đạt tới sự chứng ngộ hoàn toàn tự do: “Phật cũng không mà Tổ cũng không, không cần trí giới, không cần niệm kinh...”. Đó cũng chính là tinh thần thực tiễn, phá chấp, khai phóng, táo bạo của Phật giáo Thiền tông đời Trần.

Nội dung cốt lõi của tư tưởng thiền học Trần Thái Tông được ông nói rõ ở bài Tọa Thiền luận (Bàn về ngồi Thiền): “Người học đạo chỉ cần kiến tính”. “Kiến tính” là thấy tính. Tính là tâm, tâm là Phật. Phật tính có ở mọi vật, mọi người. Điều cốt yếu đối với một thiền gia là phải thấy rõ Phật tính trong mình. Khi thấy tính có nghĩa là thành Phật. Xuất phát từ tư tưởng “kiến tính thành Phật” để đi tìm chân lý nên trong cuộc đời Trần Thái Tông không ngừng tự thức tỉnh, tinh tiến vươn lên; sống và hành động phóng khoáng, dũng cảm. Hình ảnh Trần Thái Tông là hình ảnh một con người khi làm tướng đánh giặc thì “xông pha giữa tên đạn”, khi làm vua thì sẵn sàng “trút bỏ ngai vàng như trút bỏ đôi dép rách”, như lời nhận xét của sử gia Ngô Thì Sĩ.

Khi nghiên cứu tư tưởng Thiền của Trần Thái Tông, chúng ta không thể không liên hệ đến phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân Tông đứng đầu và sẽ thấy, tư tưởng Trần Nhân Tông nói riêng và tư tưởng của phái Trúc Lâm nói chung, thực ra là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời khỏi hệ thống tư tưởng Thiền đời Trần, trong đó nổi bật lên vai trò chủ đạo có ảnh hưởng chi phối của tư tưởng Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ. Ở đây chỉ nói riêng về Trần Thái Tông. Khi Luận về niệm Phật, ông nói: “Người trí có ba hạng: người thượng trí, tâm tức Phật, không cần tu thêm. Niềm tức là bụi, không dung một mảy may. Niềm bụi vốn trong sạch, cho nên nói như, không động tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng, tướng không hai, lặng lẽ có thường, có mà không biết, ấy là Phật sống...”.

Như vậy, theo Trần Thái Tông, mục đích của người tu Phật là giác ngộ (Sambodhi); mà sự giác ngộ là do chủ quan quyết định. Muốn giải thoát không phải đi tìm nguyên nhân bên ngoài mà phải tìm nguyên nhân bên trong - nơi tâm ta; bởi vì Phật tính ở trong tâm ta. Điều cốt yếu nhất là phải thấy được Phật tính, thông qua con mắt tuệ, để nắm trọn lấy chân lý đó.

Khi đã có được con mắt tuệ, nghĩa là có được ánh sáng trí tuệ cao nhất thì Phật và ta là đồng nhất. Hiểu được như vậy thì tất cả những cái trói buộc quan niệm ta như chuyện sống, chết, chuyện tọa thiền, thuyết pháp... không còn là chuyện đáng bận lòng. Phật là ở ngoài những cái đó. Có thể nói, Trần Thái Tông cũng như Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông đã đi xa trên con đường phủ định cả tâm, cả Phật.

Trần Thái Tông nói: “Chẳng lấy muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật hãy còn. Phật cũng không, tâm cũng không” (Phổ thuyết về lối hướng lên - Khóa hư lục).

Nét đặc sắc trong tư tưởng Thiền học Trần Thái Tông là ông đã giải quyết được mối quan hệ giữa tiếng gọi “không tịch” của nhà Phật với tiếng gọi về một trách nhiệm đối với non sông đất nước. Điều đó được thể hiện qua câu chuyện khi Trần Thái Tông bỏ cung đình vào núi Yên Tử tu hành thì Trần Thủ Độ đem tả hữu đi tìm mời về và nói với Trần Thái Tông rằng: “Bệ hạ vì mục đích tu lấy cho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Vì để lời nói suông mà bảo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ”. (Trần Thái Tông - Thiền tông chỉ nam tự).

Trần Thái Tông đã nghe theo tiếng gọi đó trở về triều. Mười ba năm sau - năm 1258, Trần Thái Tông đã phá tan quân xâm lược Nguyên-Mông ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất.

Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề “quốc gia xã tắc” ra và giải quyết theo hướng đặt “quốc gia xã tắc” lên trên hết, trước hết như thế.

Ở Việt Nam “quốc gia xã tắc” bao giờ cũng là vấn đề trọng đại nhất. Thái độ đối với “quốc gia xã tắc” chính là thước đo giá trị của mỗi người bất kể họ ở cương vị nào.

Về phương diện này, Trần Thái Tông đã để lại một tấm gương sáng ngời trong lịch sử.

Khóa hư lục không chỉ là một tác phẩm chứa đựng những tư tưởng triết học Phật giáo sâu sắc mà còn thể hiện rõ tác giả Trần Thái Tông là một người có tâm hồn thi sĩ dạt dào cảm xúc trữ tình. Những bài kệ dưới hình thức thơ thất ngôn, ngũ ngôn trong Khóa hư lục khá giầu hình tượng thi ca. Thí dụ bốn bài kệ nói về bốn ngọn núi (Tứ sơn kệ) tượng trưng cho bốn giai đoạn của một đời người mà ai cũng phải trải qua, đó là sinh (núi thứ nhất), lão (núi thứ hai), bệnh (núi thứ ba) tử (núi thứ tư).

Cũng như tình yêu, cái chết đã trở thành một đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật thế giới xưa nay. Trần Thái Tông là một nhà thơ cổ Việt Nam viết về cái chết thật lạ và mới, khiến người đọc đến bàng hoàng. Trong bài kệ thứ tư, để diễn tả cái chết, đúng hơn là để thức tỉnh nhân thế rằng, đời người chỉ là một ảo ảnh giữa bão giông rồi sẽ biến mất, chỉ còn lại sự tĩnh lặng ngàn đời. Trần Thái Tông đã mượn hình ảnh ông chài say tuý luý trên chiếc thuyền câu mong manh trong cuồng phong và dòng sông với bóng trăng, nhằm nêu lên triết lý về tính bất định, hư ảo của cuộc đời:

Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh,

Ngư ông tuý luý điếu chu hoành.

Tứ thì vẫn hợp âm mai sắc,

Nhất phát ba phiên cổ động thanh.

Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch,

Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh.

Tạm thời trần liễm thiên biên tĩnh,

Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh.

(Tan không gió vận đại địa sinh,

Thuyền chài đương say câu ngang sông.

Bốn phương mây đùn trời tối đen,

Một dòng nổi sóng tiếng ầm ầm.

Mưa rây đòi trận gió trích trích,

Sấm vần chuyển động thét ầm ầm.

Một giây mây tan nửa trời sáng,

Trăng lặn sông dài đêm mấy canh!)

(Bản diễn Nôm của Phúc Điền hòa thượng, thế kỷ XIX)

Về phương diện văn chương, bài kệ này quả là một thi phẩm có hình tượng độc đáo, chứng tỏ Trần Thái Tông là một nhà thơ giàu tài năng. Tâm hồn thi sĩ của Trần Thái Tông được thể hiện rất đẹp qua bài Ký Thanh phong am tăng Đức Sơn (Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong):

Phong đã tùng quan nguyệt chiếu đình,

Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh.

Cá trung tư vị vô nhân thức,

Phó dữ sơn tăng lạc đảo minh.

(Gió đập cành thông cửa chùa, trăng chiếu trên sân,

Tâm hồn với phong cảnh cùng tĩnh lặng.

Cái thú vị riêng trong đó không ai biết,

Cứ cùng với nhà sư vui đến sáng)

Là một nhà thiền học xuất sắc, một ông vua anh hùng, một nhà thơ trữ tình tinh tế, Trần Thái Tông đã để lại trong lịch sử văn hóa dân tộc một dấu ấn đặc sắc không thể phai mờ./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Công nhận Mộc bản ở chùa Dâu (Bắc Ninh) là Bảo vật Quốc gia
    Bộ mộc bản chùa Dâu gồm 107 ván khắc là hiện vật gốc duy nhất, độc bản, toàn vẹn và có tính xác thực với nhiều loại hình văn bản như: truyền thuyết về Phật Tứ pháp, kể hạnh về Phật Tứ pháp, kinh Phật, các nghi lễ cầu mưa, cầu tạnh, cúng tế các vị Tổ chùa...
  • Gìn giữ nét Việt cùng giấy Dó giữa lòng Hà Nội
    Vùng Bưởi xưa nổi danh Hà thành với nhiều làng nghề truyền thống, trong đó đặc biệt nhất phải kể đến nghề làm giấy dó làng Yên Thái. Nghề làm giấy dó xưa đã đi vào ca dao người Việt, niềm tự hào nét tinh hoa văn hóa của người Kẻ Bưởi: Mịt mù khói tỏa ngàn sương/Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
  • Lễ hội làng Keo được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
    Lễ hội truyền thống làng Keo thuộc thôn Giao Tất, xã Kim Sơn (huyện Gia Lâm, Hà Nội) gắn liền với tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng, vị thần bảo trợ của cộng đồng làng Keo là tướng quân Đào Phúc và Tiên Anh công chúa đã có công cùng đại danh tướng Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt, đánh tan quân Tống, quân Chiêm Thành xâm lược.
  • Phát huy giá trị di sản văn hóa Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ
    Ngôi đền Đồng Cổ nằm trong không gian di sản bên bờ Hồ Tây, Hà Nội độc đáo vì gìn giữ được Hội thề trung hiếu từ thời nhà Lý đến nay. Đây là di sản không chỉ có giá trị văn hóa mà còn có mang ý nghĩa giáo dục bồi đắp lòng kiên trung, hiếu học theo khát vọng của người xưa.
  • Hiểu rõ hơn lịch sử Quốc Tử Giám dưới thời nhà Lý
    Tại Nhà Đông vu, khu Đại Thành thuộc Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội), những hiện vật được trưng bày thường xuyên với chủ đề “Quốc Tử Giám - Trường Quốc học đầu tiên” giúp du khách tìm hiểu rõ hơn về lịch sử Quốc Tử Giám dưới thời Lý.
  • Nhiều hoạt động đặc sắc tại Festival Huế 2024
    Diễn ra từ 7 - 12/6/2024, Tuần lễ Festival nghệ thuật quốc tế Huế 2024, với chủ đề “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển” là điểm nhấn Festival Huế 2024.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • Thêm một nỗi niềm cho Tây Bắc
    Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ.
  • Khai mạc Liên hoan ảnh nghệ thuật các câu lạc bộ nhiếp ảnh Hà Nội năm 2024
    Sáng 15/5, tại Phố Sách 19/12, Hội nhiếp ảnh nghệ thuật Hà Nội phối hợp cùng các câu lạc bộ (CLB) nhiếp ảnh trên địa bàn Thành phố Hà Nội tổ chức khai mạc “Liên hoan ảnh nghệ thuật các câu lạc bộ nhiếp ảnh Hà Nội” với chủ đề “Việt Nam - Đất nước - Con người”.
  • Nhịp sống mỗi ngày ở khu tập thể cũ Hà Nội
    Với nhiều người Hà Nội, những khu tập thể là nơi lưu giữ nhiều ký ức về nếp sinh hoạt cũ - một phần ký ức của Hà Nội. Giữa nhịp sống hiện đại hôm nay, những khu tập thể cũ ở Hà Nội vẫn lặng lẽ ẩn mình giữa đô thị hiện đại. Với không ít người nó vẫn là những ký ức khó quên với những ai đã từng sống tại các khu tập thể. Nơi đó, mỗi ngày mới, nhịp sống lại bắt đầu...
  • HĐND Thành phố Hà Nội thông qua Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2025
    Với 100% đại biểu có mặt tại Kỳ họp Chuyên đề thứ 16 diễn ra sáng 15/5 tán thành, HĐND thành phố Hà Nội khóa XVI đã thông qua Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thành phố Hà Nội giai đoạn 2023-2025.
  • Nghệ sĩ Nhật Bản đưa Ninja và Samurai lên sân khấu xiếc Việt
    Chương trình xiếc, ảo thuật "Ninja magic show" của nhóm nghệ sỹ Nhật Bản từng gây tiếng vang tại nhiều nước trên thế giới sẽ đến với khán giả Việt Nam từ ngày 18-26/5.
  • Giới thiệu 55 tác phẩm vẽ về Bác của họa sĩ Việt kiều Đào Trọng Lý
    Từ ngày 17/5 đến 22/5/2024 tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, số 66 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội sẽ diễn ra Triển lãm “Tấm lòng của họa sĩ Việt kiều với Bác Hồ” của họa sĩ Đào Trọng Lý.
  • Bồi đắp tình yêu quê hương đất nước cho thế hệ trẻ
    Tối 14/5, Chung khảo “Liên hoan Tiếng hát cựu thanh niên xung phong Hà Nội 2024” (cụm 1) tiếp tục diễn ra tại Trung tâm Văn hóa Thành phố (quận Hà Đông), với những phần trình diễn ca múa nhạc đặc sắc, để lại ấn tượng và góp phần bồi đắp tình yêu quê hương đất nước tới công chúng.
  • Đề xuất không sắp xếp đơn vị hành chính đối với quận Hoàn Kiếm do yếu tố đặc thù
    Kỳ họp Chuyên đề (kỳ họp thứ 16) HĐND thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026, sẽ diễn ra trong buổi sáng ngày 15/5. Tại Kỳ họp này, HĐND Thành phố dự kiến xem xét, thông qua Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thành phố Hà Nội giai đoạn 2023 – 2025. Đáng chú ý, quận Hoàn Kiếm thuộc diện sắp xếp nhưng vì yếu tố đặc thù nên không thực hiện sắp xếp.
  • Liên hoan nghệ thuật Sân khấu toàn quốc dành cho thiếu niên, nhi đồng
    Liên hoan diễn ra từ ngày 13/5 – 20/5, quy tụ 14 đơn vị nghệ thuật sân khấu trên cả nước với 17 tác phẩm nghệ thuật tham gia. Các tác phẩm sân khấu đem đến liên hoan đa dạng về thể loại, gồm: Kịch nói, nhạc kịch, xiếc, chèo, múa rối, ảo thuật, ca múa kịch.
  • Công nhận Mộc bản ở chùa Dâu (Bắc Ninh) là Bảo vật Quốc gia
    Bộ mộc bản chùa Dâu gồm 107 ván khắc là hiện vật gốc duy nhất, độc bản, toàn vẹn và có tính xác thực với nhiều loại hình văn bản như: truyền thuyết về Phật Tứ pháp, kể hạnh về Phật Tứ pháp, kinh Phật, các nghi lễ cầu mưa, cầu tạnh, cúng tế các vị Tổ chùa...
Trần Thái Tông – một hoàng đế anh hùng của Việt Nam, nhà thiền học, nhà thơ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO