Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!

Nguyễn Sĩ Đại | 09/12/2021 07:26

Tôi đã nghe danh họa sĩ Giang Nguyên Thái từ những ngày chống Mỹ. Không ngờ, sau này tôi lại có may mắn được làm việc với anh một thời gian tại 19 Hàng Buồm, trụ sở của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Anh ở Hội Văn nghệ dân gian, còn tôi ở Hội Nhà văn. Đều là người lính, chúng tôi sau hòa bình đã trở về Bắc, để lại trong lòng đất miền Nam nhiều anh em, bạn bè, đồng chí và biết bao câu chuyện không dễ gì có lại ở đời sau...

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!
Họa sĩ Giang Nguyên Thái (giữa) ký họa ở chiến trường miền Nam.
Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Mỗi văn nghệ sĩ đến với chiến trường theo một cách khác nhau. Có người vào chiến trường mới trở thành nghệ sĩ. Riêng anh, họa sĩ Giang Nguyên Thái đã “xẻ dọc Trường Sơn” như thế nào?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Tháng 10/1969, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội, chúng tôi được Bộ Văn hóa cử đi B. Đoàn chúng tôi gồm các họa sĩ quê miền Nam như: Nguyễn Thế Vinh quê ở Quảng Ngãi; họa sĩ Xu Man quê Kon Tum cùng  Hồ Thu (Hồ Đức Bình), Phạm Dân, Ngô Văn Riễn. Anh Xu Man vào thẳng Ban Tuyên huấn tỉnh Kon Tum, Hồ Thu và Phạm Dân về Quảng Ngãi, Ngô Văn Riễn đi lên Gia Lai. Tôi chốt lại ở Hội Văn nghệ Giải phóng miền Trung Trung Bộ. Khi nhận lệnh, tôi biết mình đang dấn thân vào một cuộc sống vô cùng gian khổ, chết chóc ở mỗi bước đi nhưng đó là con đường thiêng liêng. Vì thế, ngoài sự bịn rịn và những tình cảm thông thường khác, tôi cảm thấy mình sung sướng, hãnh diện trong vai người chiến sĩ.

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Anh hãnh diện trong vai người chiến sĩ, vì những lời ca ngợi, hay chính tự trái tim mình? Và người nghệ sĩ thì sao?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không phải nói theo kiểu tuyên truyền chính trị đâu nhé, mà nói về bản chất. Bản chất của người nghệ sĩ là người chiến sĩ. Nghệ sĩ phấn đấu, chiến đấu vì cái đẹp, vì tự do, vì những quyền thiêng liêng của con người. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, người nghệ sĩ phải cầm súng, có thể hy sinh bất cứ lúc nào - đó là điều bắt buộc; nhưng cũng phải nói đó là một sự trùng hợp, kết hợp đẹp đẽ để người nghệ sĩ được cống hiến hết mình. Đó cũng coi như một may mắn, không phải lúc nào cũng có. 

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Khu V nơi anh đóng quân là nơi có chiến sự ác liệt và đói, khát. Chắc hẳn trong ký ức của anh vẫn còn nhớ rõ?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Hội Văn nghệ Trung Trung Bộ lúc ấy đóng ở vùng sông Bui, huyện Nam Trà Mi, tỉnh Quảng Nam. Chiến trường Khu V những năm đó rất ác liệt. Đường dây 559 bị địch đánh phá ác liệt không ngừng nên vận chuyển lương thực, nhu yếu phẩm từ Bắc vào rất tắc bọp. Khu V nhiều trận đói to. Hằng tháng trời, chúng tôi không có gạo, toàn phải vào rừng lấy măng, lấy nấm mèo (mộc nhĩ) về ăn trừ cơm. Chúng tôi phải làm rẫy trồng lúa, trồng sắn, trồng bắp để tự túc lương thực.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết rất đúng trong Bài thơ về hạnh phúc viết cho vợ mình, Dương Thị Xuân Quý, một nhà văn - liệt sĩ:

Nhớ chăng em, cái mùa mưa đói quay đói quắt
Mỗi bữa chia nhau nửa bát măng rừng
Em xanh gầy, gùi sắn nặng trên lưng
Môi tái ngắt, mái tóc mềm đẫm ướt 

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!
Huyện Đăk tô, Kon Tum ngày giải phóng - ký họa của họa sĩ Giang Nguyên Thái.

Về phía hội họa, ít lâu sau ngày chúng tôi đi, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội lại gửi họa sĩ Trần Hữu Chất (Hồng Chinh Hiền), Trần Thăng Giai (Trần Việt Sơn) vào Tiểu ban Văn nghệ Khu V. Anh Chất là họa sĩ sơn mài, anh Việt Sơn là họa sĩ trang trí. Trường Mỹ thuật Công nghiệp cử nhà điêu khắc Phạm Hồng và họa sĩ Đức Hạnh vào chiến trường. Anh Phạm Hồng vào công tác ở Ban Tuyên huấn Khu V… Ngoài mỹ thuật, Hồng Chinh Hiền còn là một nhà thơ tài hoa, tác giả của tập thơ Đá trắng. Cái đói cơm, khát nước thật lúc ấy cả nước ở đâu cũng vậy, chỉ là biểu hiện khác nhau. Vượt được cái đói khát và nhiều nỗi gian lao khác mà bây giờ kể lại, không phải người thời ấy thì không thể tưởng tượng nổi, chính là cơn khát lớn: Giải phóng Miền Nam. Cơn khát nhỏ, con của cơn khát lớn của chúng tôi là làm sao có những tác phẩm thể hiện được đời sống anh hùng nhân dân, những tác phẩm góp phần nhanh chóng giải phóng miền Nam.

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Vâng, tôi nhớ chị Dương Thị Xuân Quý, người con của quê hương Văn Giang, Hưng Yên. Chị là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, tình nguyện vào Nam năm 1965 làm phóng viên Văn nghệ Giải phóng Nam Trung Bộ. Và chị đã hy sinh anh dũng đúng vào ngày 8/3/1969 tại Duy Xuyên, Quảng Nam, như chính các nhân vật mà chị từng yêu, từng viết – những con người rất quý cuộc sống của mình nhưng cũng biết rõ ý nghĩa của cái chết thắp lên sự sống: Mỗi đêm ra đi giản dị hiến mình/ Để làm nên buổi mai đầy nắng. Còn với anh, họa sĩ Giang Nguyên Thái?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Anh là nhà thơ, lại là người nghiên cứu văn học cổ, hẳn anh biết bài từ Lương Châu của Vương Hàn: Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Ngay từ khi rời miền Bắc, chúng tôi xác định chết nhiều hơn sống. Tin chắc cuộc kháng chiến sẽ thắng lợi, nhưng không tin mình sẽ sống để trở về. 

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Nhưng anh đã may mắn được trở về và không may mắn khi chứng kiến rất, rất nhiều người không được trở về; trong đó có những người được lưu trong các bức họa. Mỗi bức ký họa thời ấy, hẳn là một câu chuyện “không thể nào quên” với anh?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!
Nữ du kích xã Xuyên Thanh, huyện Quảng Đà - ký họa của họa sĩ Giang Nguyên Thái.

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Đúng vậy. Đầu năm 1971, lúc này Hội Văn nghệ đã chuyển về vùng Nước Ngheo, nay là xã Trà Ca, huyện Nam Trà Mi. Dọn xong hai cái rẫy để trồng lúa, tôi cùng nhà thơ Dương Hương Ly và nhà thơ Thanh Quế khoác ba lô lên đường đi công tác ở chiến trường Quảng Ngãi. Người Cà Dong gọi sông, suối là “nước”, Nước Ngheo phiên sang tiếng Kinh là Suối Ngheo. Từ Nước Ngheo, chúng tôi phải đi qua dốc Bình Minh, qua hai trạm giao liên để vào Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Ngãi, lúc đó đang đóng ở vùng Nước Biếc. Tới trạm giao liên, tôi lấy giấy bút ra vẽ chân dung anh trưởng trạm, anh chàng này còn khá trẻ, quê ở Hà Tây, cằm vuông, lông mày rậm, râu quai nón trông rất đàn ông. Nhà thơ Thanh Quế và nhà thơ Dương Hương Ly cứ đi vòng quanh khen đẹp, khen giống và có hồn lắm… Kết quả, chúng tôi nhận được gạo, muối lại còn thêm cả đường, sữa, thịt hộp và bột trứng! Hai nhà thơ bảo: Hóa ra cái nghề vẽ lợi hại thật!

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Vậy còn những nữ du kích, giao liên?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Ồ, nữ du kích, giao liên ư? Tôi cho rằng, anh hùng nhất, đáng cảm phục nhất trong chiến tranh chống Mỹ, chính là các nữ chiến sĩ. Và họ cũng chính là người đẹp nhất nhìn từ góc độ hội họa.

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!
Các nữ chiến sĩ đại đội biệt động Lê Độ ở thành phố Đà Nẵng - ký họa của họa sĩ Giang Nguyên Thái.

Nói về họ tôi lại nhớ kỷ niệm ngày 25/4/1972, chúng tôi theo du kích và cán bộ vào Đắc Tô. Qua một con suối, mọi người dừng lại uống nước. Tôi vục một ngụm nhưng ói ra ngay, không sao uống nổi. Đi ngược suối chừng 200m thấy hai xác lính ngụy chết trương phềnh giữa suối. Mọi người sợ quá móc họng nôn ra bằng hết! Tới đây đã có thông tin là Đắc Tô - Tân Cảnh hoàn toàn giải phóng! Vào đến thị trấn Đắc Tô thì trời vừa hửng sáng. Chúng tôi đi thẳng vào dinh quận trưởng Vi Văn Bảo. Tên quận trưởng này cũng vừa lên trực thăng di tản. Trong nhà bừa bãi thức ăn, quần áo, súng ống, lựu đạn... Ngoài sân, cờ giải phóng đã phấp phới bay trên nóc dinh quận trưởng. Thị trấn Đắc Tô vắng lặng, chỉ có bộ đội, du kích và cán bộ đi lại trên đường. Dân vẫn đóng cửa im ỉm. Đến trước cửa nhà thờ Tin Lành, tôi gặp ba nữ chiến sĩ biệt động. Ba cô còn rất trẻ, quần áo đen, mũ giải phóng, khoác AK báng gấp, lựu đạn gài đầy thắt lưng. Gương mặt trẻ sạm đen khói súng. Trông họ hiên ngang, kiêu dũng và đẹp lạ lùng; một vẻ đẹp chưa từng có trong văn học nghệ thuật của mọi thời. Tôi rút bút ghi lại hình ảnh đó. Trời đã bắt đầu vào hạ, hoa phượng ở Tây Nguyên hình như thắm hơn hoa phượng ở Hà Nội. Sắc hoa đỏ thắm hòa với màu cờ giải phóng và băng rôn đỏ rực làm sáng bừng thị trấn Đắc Tô. Đó cũng là bức ký họa sáng mãi.

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Tôi có nhớ một bức ký họa bằng chì than của anh “17 tuổi, đánh trên 20 trận ngay trong thành phố, giữa ban ngày, diệt 250 tên giặc”. Đó là một chiến sĩ trong Đại đội biệt động Lê Độ?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Vâng, đó là cô Đoàn Thị Tứ thuộc Đại đội Đặc công Biệt động Lê Độ (mang mật danh 180) của thành phố Đà Nẵng được thành lập ngày 23/3/1968. Tôi nhớ rất rõ đã vẽ bức này vào ngày 10/12/1972 tại vùng B, Đại Lộc khi tôi đi thực tế sáng tác với Đội. Họa sĩ Đức Hạnh đưa tôi lội ruộng nước gần tới thắt lưng để qua bến đò Giảng Hòa rồi vào chợ Mỹ Thuận. Sau đó, Đức Hạnh đưa tôi vào Đại đội Biệt động Lê Độ, lúc đó đơn vị đang đóng quân ở vùng Khe Rằn, Đại Lộc, gần Dốc Gió, lối đi Thành Mỹ. Đoàn Thị Tứ lúc ấy vừa tròn 17 tuổi, tóc cắt ngang vai. Cùng là đồng đội của Tứ còn có Thái Hùng, Minh, Lan, Thúy, Mười, Bông..., các em đều rất trẻ, trông vẫn như còn dáng dấp của các cô cậu học sinh trung học, vậy mà thành tích đánh giặc thật phi thường. Tết năm đó, tôi ăn Tết cùng với các anh chị em, cũng có bánh tét, giò heo... nhưng vẫn có đơn vị đi tác chiến. Đêm nằm nghe tiếng súng, tiếng lựu đạn, tiếng B40 vang rền trong huyện lỵ, trong thành phố, anh chị em lại bảo nhau: đêm nay đội Thái Hùng đánh, tiếng AK phát một là của Minh đấy, còn tiếng lựu đạn ầm ầm là của các chiến sĩ nữ đánh chặn để anh em rút lui... Nghe mà thương, mà cảm phục các em quá!

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!
Du kích xã ở Đại Lộc, Quảng Đà - ký họa của họa sĩ Giang Nguyên Thái.
Sau này hòa bình lập lại, tôi đã đi tìm Tứ và các em ở Đại đội Đặc công Biệt động Lê Độ rất nhiều. Tháng 10/2016, tôi nhận được một cuộc điện thoại của Học nói em Học ở Biệt động Lê Độ đây. Học bảo đang ở Bình Định, đọc bài báo của tôi mới biết tôi đang đi tìm họ nên gọi cho tôi. Học còn cho tôi biết Tứ, Hùng và nhiều anh chị em vẫn đang ở Đà Nẵng... Tôi xúc động và quá bất ngờ, liên tiếp hỏi Học biết bao nhiêu câu và hẹn sẽ sớm trở lại gặp anh em.

Một tháng sau, tôi vào Đà Nẵng, Thái Hùng và Học đã đặt khách sạn đón tôi. Anh em gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Các em bảo: “Đọc bài báo chúng em đã khóc, rồi tìm rất nhiều cách để có thể liên lạc được với anh. Chúng em đã đọc cho nhau nghe bài báo của anh qua điện thoại, đứa nào cũng khóc. Nhớ anh Thái quá”.

So với bức ký họa tôi vẽ, Đoàn Thị Tứ vẫn còn có nét của những năm 1972, tuy thời gian đã 44 năm qua, nhưng nhìn em là có thể nhận ra ngay cô đội viên Biệt động ngày ấy! Sau giải phóng, các em được chuyển sang lực lượng công an thành phố, một số em được đi học, số làm cán bộ chỉ huy, giờ cũng đã nghỉ hưu hết cả.

Trong một bức tranh khác, tôi vẽ ba cô đội viên Biệt động, Thái Hùng bảo, cô áo đỏ nếu em nhớ không nhầm là Trần Thị Chiến. Sau ngày anh về vẽ, Chiến đã bị địch bắt, chúng đánh đập, tra khảo dã man và trói em rồi cho lên xe chạy rong khắp thành phố. Chúng còn đưa cả cha mẹ em đến, nhưng Chiến lắc đầu không nhận. Biết không khuất phục được người nữ chiến sĩ dũng cảm, kiên cường, chúng hèn hạ cắt tai, xẻo ngực, giết em rồi đem bêu ngoài chợ huyện. Sau này Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng. Chiến cũng không để lại tấm ảnh nào, may còn có hình ảnh trong ký họa của tôi...

Sau chiến tranh, tôi đã tới rất nhiều nơi tôi đã ở trên chiến trường xưa, tìm tung tích những người tôi đã gặp, đã vẽ, nhưng người còn, người mất… Người mất, người lưu lạc nhiều hơn người đã gặp. Người gặp thì đã già, không còn nhớ mặt nhau, chỉ cái tên là còn nhớ. Với tôi, cuộc chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt… Không chỉ bộ đội, du kích, nhân dân mà tên tuổi anh em văn nghệ sĩ mỗi khi nhắc đến lại thương nhớ nao lòng… Đó là các anh chị Vương Linh (bút danh Hải Lê), Chu Cẩm Phong, Dương Hương Ly, Cao Duy Thảo, Thanh Quế rồi Trần Vũ Mai, Nguyễn Khắc Phục, Hoàng Sơn, Hoàng Hởi, Nguyễn Bá Thâm, Trần Thành, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Thị Bắc Hà, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Bảo, Nguyễn Chí Trung, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, ca sĩ Thanh Đính, biên đạo múa Hiền Anh, Phương Anh, họa sĩ Hà Xuân Phong, Nguyễn Thế Vinh, Hồng Chinh Hiền, Trần Việt Sơn… Những năm đó vào chiến trường B không mấy ai không bị sốt rét, nhất là bệnh sốt rét ác tính. Bom đạn và sốt rét ác tính đã cướp đi rất nhiều anh chị em và chiến sĩ giải phóng. Sau hòa bình, thương tật, bệnh tật và tuổi già lại làm vơi nhiều hơn nữa đội ngũ những người kháng chiến. Dịp 30/4 hằng năm, gặp nhau lại thấy vơi thêm…

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Được biết anh không bao giờ bán những bức ký họa ở chiến trường của mình, ngay cả khi anh khó khăn nhất và người nước ngoài mua với giá cao?

Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Tôi đã có triển lãm tranh nước ngoài và bán được một số tranh. Trong cuộc đời, tôi đã bán đi nhiều thứ nhưng những ký họa ở chiến trường thì không bao giờ bán cả!

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Đúng vậy, người ta có thể hiến máu nhưng không bán máu, không thể bán những điều thiêng liêng. Cuộc sống bây giờ vẫn còn là một trận chiến. Và mong anh vẫn là người nghệ sĩ - chiến sĩ lập thêm nhiều chiến công!
(0) Bình luận
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Cô giáo Lan và những bài học không chỉ đến từ kiến thức
    Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, có những khoảnh khắc và những con người đặc biệt mà ta không thể nào quên. Đối với tôi, một trong những người để lại ấn tượng sâu sắc nhất là cô Lan - giáo viên trường Tiểu học Liên Bảo (Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc).
  • Ra mắt hai cuốn sách văn hóa Việt tại Trung Quốc
    Trong khuôn khổ của Tuần lễ Văn hóa sách Trung Quốc – Đông Nam Á 2024 được tổ chức tại Thành phố Nam Ninh (Trung Quốc), Công ty Cổ phần Văn hóa Chi (Chibooks) đã tổ chức lễ ra mắt sách “Vắt qua những ngàn mây” và “Người Hà Nội, chuyện ăn chuyện uống một thời” ấn bản tiếng Trung vào chiều 16/11. Đây là lần đầu tiên sách Văn hóa Việt được dịch ra tiếng Trung và được xuất bản chính thức tại Trung Quốc. Sự kiện do Công ty Cổ phần Văn hóa Chi và NXB Khoa học Kỹ thuật Quảng Tây đồng tổ chức.
  • Họa sĩ Xu Man trở thành nguyên mẫu trong tác phẩm của nhà văn Trung Trung Đỉnh
    Lấy cảm hứng từ cuộc đời thực của họa sĩ người Bahnar Xu Man, trên phông nền là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc, nhà văn Trung Trung Đỉnh đã viết tác phẩm “Con thiêng của rừng”. Sách thuộc tủ sách Văn học thiếu nhi của NXB Trẻ, hướng đến bạn đọc từ 12 tuổi trở lên, nhưng đây cũng là một tác phẩm thú vị đối với người lớn.
  • Ra mắt cuốn sách “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
    Ban Nội chính Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức Lễ ra mắt cuốn sách “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Cuốn sách do Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc chỉ đạo biên soạn.
  • “Vang danh nghề cổ” - series tranh truyện độc đáo về làng nghề thủ công Việt Nam
    NXB Kim Đồng vừa ra mắt bộ sách “Vang danh nghề cổ” - series tranh truyện độc đáo giới thiệu về các làng nghề thủ công truyền thống của Việt Nam dành cho bạn đọc nhỏ tuổi.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Video] Sóng lụa làng nghề Vạn Phúc
    Là một trong những làng nghề thủ công ra đời sớm nhất vùng Đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước, làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) là làng nghề dệt lụa tơ tằm nổi tiếng từ xa xưa. Nhiều mẫu hoa văn của lụa Vạn Phúc từng được chọn may quốc phục dưới các triều đại phong kiến. Ngày nay, ngoài việc gìn giữ, phát huy giá trị của nghề truyền thống qua các sản phẩm, làng lụa Vạn Phúc còn là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong nước và quốc tế.
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Triển lãm "Cộng đồng kiến tạo": Vinh danh những đóng góp giá trị cho xã hội
    Sáng 22/11, tại sân Bái Đường, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã diễn ra Triển lãm "Hành động vì cộng đồng" - Human Act Prize 2024 với chủ đề “Cộng đồng kiến tạo”.
  • Đồng chí Nguyễn Việt Phương giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội
    Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Thanh Trì Nguyễn Việt Phương được điều động đến công tác tại Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy khóa XVII.
Đừng bỏ lỡ
Họa sĩ Giang Nguyên Thái: Không bao giờ tôi bán những bức ký họa ở chiến trường!
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO