Nếu như trong Thơ mới là sự phân định rõ rà ng không gian nghệ thuật giữa thà nh thị và nông thôn thì với chà ng thi sĩ Đồng Đức Bốn, lại là hai cảnh ngộ, một số phận. Là ng quê chưa theo kịp thà nh thị, tuy không bị mất đi tất cả cảnh vật, quan niệm, tập tục để đô thị hoá triệt để nhưng đã bị cuộc sống đô thị thâm nhập và xâm lấn. Ở phía ngược lại, đô thị trong thời điểm nà y cũng không còn tồn tại như những ốc đảo trong sự bao bọc của là ng mạc mà đã gần lại với là ng quê bằng những "khúc đệm". Những khúc đệm ấy là cái tâm tình của trai quê ra thà nh phố, tự tin và háo hức: Nhà quê khí huyết trà n trử / Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân (Phạm Công Trứ). Khúc đệm ấy là những cô gái với giấc mơ trưa vử thà nh thị khi mà bụi kinh thà nh đang trà n tới: Bụi bay và o mắt bụi len và o hồn (Phạm Công Trứ). Là "vêu vao" khuôn mặt vốn đầy đặn của thôn nữ: Lử đường bên những chiếc lửu / Có cô hà ng xén ngồi vêu cả ngà y (Đồng Đức Bốn). Khúc đệm ấy cũng là cuộc tình duyên dang dở là ng - phố, phố - là ng.
Cũng vì nguyên cơ ấy mà cuộc "dan díu với kinh thà nh" của Đồng Đức Bốn cũng bị động trong sự câu thúc của thà nh thị. Điửu đó thể hiện qua những nỗi lo: lo là ng quê vẫn trong cảnh nghèo đói: Khói nhà ai cứ mọc ngang / Con nhà ai cứ lang thang chợ chiửu ; Nhà bạn cũng giống nhà tôi / Mái gianh vách đất nhìn trời qua vung ; Nhà quê chân lấm tay bùn / Mẹ đi cấy lúa rét run thân già . Thế nhưng lại đã lâm và o cảnh: Ngả nghiêng mấy lão thợ cầy / Rượu say vác cả cối chà y nện nhau; Nhà quê có mấy trai tơ / Quần bò mũ cối giả vử sang chơi. Chẳng biết là hay, hay là dở, nhưng cứ nháo nhác lên như thế: từ già đến trẻ, từ vui đến buồn, từ bật cười đến rơi nước mắt.
Đằng sau tất thảy những cái lo kia lại là cái lo lớn nhất: lo không ai biết đến mình, không ai nghe thấy tiếng mình: Một mình tôi đứng với tôi / Bà n chân giẫm lụt cả trời heo may. Đến với thà nh thị, con người nhà quê tất phải va vấp, hẫng hụt. Nhưng, gã thi sĩ quen là m thơ lục bát đến với đô thị không mong được hội nhập mà cốt để ứng chiếu: Tôi thì xe đạp lang thang / Nhìn dọc đã chán nhìn ngang lại buồn; Chiửu mưa phố Huế một mình / Biết ai là chỗ ân tình đến chơi (Chiửu mưa trên phố Huế). Nhưng cuộc ra đi không phải "nhất khứ bất phục phản" mà là sự đi - vử liên tục trong sự ngắm nghía đối sánh một cách ngây thơ và cần mẫn. Đồng Đức Bốn ra với thà nh thị vì ám ảnh, chạm nọc, hay dị ứng cái chất "phố" ở quê? Chỉ biết rằng ra đến nơi, té ra lại bắt gặp cái chất "quê" ở phố: Người thì áo rách đã lâu / Người thì xe cúp đua nhau từng hà ng. Thế mới biết tình quê ở phố của con người nà y còn tha thiết lắm! Nếu quê là xanh, phố là hồng thì quả thật nếu như không có cái xanh mướt của quê thì khó có thể là m rực lên sắc hồng của phố: Nhà cao dẫu đến lưng trời / Nếu không có cử cũng vơi sắc hồng.
Sau mỗi lần từ phố trở vử, Đồng Đức Bốn cứ hồn nhiên đem cái hồn đô thị thổi và o nhà quê mà không hử hay biết. Bởi có như thế mới nhìn là ng quê chua chát thế nà y: Trâu bò thất thểu long đong / Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi. Là ng trong mảnh hồn của Đồng Đức Bốn vẫn còn những nét nguyên sơ, thuần hậu nhưng đã bị đóng khung, đã và đang bị những luồng ánh sáng hiện đại chiếu tướng và o những cây đa, con đò, luử¹ tre... Bức tranh ấy đã nhuốm một mầu sắc tâm trạng, Sân khấu là ng quê" trong thơ ông đã bị soi chiếu bởi ánh mắt của khán giả thị thà nh nên các "diễn viên" đã chịu một sức ép, là m thay đổi phần nà o tâm trạng. Hơi thở của thời đại như đã ngấm và o đường gân thớ thịt của họ: Từ ông lái đò xưa cũ: Bử sông có một con đò / Gác chèo ông lái nằm lo trăng buồn; Đến thần, Phật: Miếu thử phật tượng ngồi đau / Cửa thiửn rêu đã lên mầu cổ xưa. Nhưng cũng phải thầm cảm ơn số phận. Bởi lẽ, từ những trải nghiệm bụi bặm với cuộc sống ấy mà Đồng Đức Bốn có được một cái nhìn đầy phát hiện mới vử cuộc sống. Anh nhìn thấy cái đẹp le lói trong sự gai góc, ngọt ngà o e ấp trong những đắng cay: Đất nâu tưởng đã cũ cà ng / Tiếng chim trong bụi gai là ng cứ non ; Thập thò trong bụi tre gai / Hoa dong riửng của nhà ai nở hồng / Nhà ai có gái chưa chồng / Nhìn mầu hoa để ngóng trông người vử ; ở trong những bụi gai tre / Vẫn hay những tiếng chích choè gọi mưa.
Trong những lần cảm thấy bơ vơ, mất chỗ dựa ở phố, nhà thơ không hẳn đã tìm được ngay con đường để trở vử quê mà anh lại lâm và o một bi kịch mới. à”ng không còn là con người tiểu nông cổ xưa với bản tính ngại phiêu lưu, mạo hiểm, mà đã có phần nà o bản lĩnh, can đảm dám xấp ngửa, được thua... dù chỉ là trong từng tình huống. Thế nên, trước khi bước qua đường ranh giới từ phố vử lại với quê, người thơ ấy đã cảm nhận được mình cần phải bắt rễ được chút gì ở đây chứ không thể lúc nà o cũng trắng tay trở vử. Đồng Đức Bốn đã tạo cho mình một cõi riêng. Cõi vu vơ nằm ngoà i sự hiểu biết, trí tưởng tượng của thôn dân, thị dân: Xong rồi chả biết đi đâu / Xích lô Bà Triệu qua cầu Chương Dương; Chiửu mưa phố Huế một mình / Biết ai là chỗ thân tình đến chơi; thậm chí ở cõi vu vơ ấy còn nhen nhóm cả những mối rà ng buộc sâu sắc hơn nữa: Bây giử đã hết mùa sen / Hương còn ở lại là em với đầm (Mùa xuân đi phủ Tây Hồ).
Đồng Đức Bốn là thế, phiêu lưu và phiêu bạt nhưng không mất đi chất quê đằm thắm trong mình. Bởi ở đâu ông cũng khát khao tìm kiếm hạnh phúc, tìm cách bắt rễ cho những câu thơ của mình.