Y Phương Một tính cách thơ của người trai trong quân ngũ

Nguyễn Thanh Kim| 28/07/2021 09:45

“Tôi/ Trán dô/ Mũi thô/ Môi dày/ Chân đi dép bốn quai vẫn thừa năm ngón/ Nhịn đói không kêu/ Nhịn khát không kêu/ Thiếu ngủ không kêu...” - Y Phương - một tính cách thơ của người trai trong quân ngũ - đã tự họa mình đầy hóm hỉnh như thế…

Y Phương Một tính cách thơ của người trai trong quân ngũ

Tôi lần đầu gặp gỡ Y Phương trong ngày nhập trường viết văn Nguyễn Du (khoá II), năm 1983. Hôm đó, tôi có cảm tình đặc biệt với một anh chàng mặc áo chàm xanh, cao dong dỏng, có nước da tai tái sốt rét rừng. Hỏi ra mới biết đó là Y Phương. Ngày trước, xem trên sách báo, đọc thơ Y Phương cứ ngỡ anh là người Tây Nguyên. Hóa ra không phải, anh là người Tày sinh ở Cao Bằng, có nhiều năm trong quân ngũ và chiến đấu ở Tây Nguyên.

Khi đọc thơ Y Phương, niềm cảm tình ấy trong tôi càng nhân lên gấp bội vì tìm thấy sau những dòng tự họa hóm hỉnh: “Tôi/ Trán dô/ Mũi thô/ Môi dày/ Chân đi dép bốn quai vẫn thừa năm ngón”, tôi bắt gặp ngay một người thơ có trái tim nhạy cảm: “Một đàn kiến re re chạy tới/ Một cọng cỏ bình yên mát rượi/ Ngón tay mềm tôi vuốt run run” (Chín tháng). Thế nên, mới có một người thơ trân trọng kỷ vật những ngày gian lao khói lửa chiến tranh: “Chiếc ba lô bé nhỏ/ Chiếc ba lô lép kẹp/ Treo vách nhà/ Đựng những ngày đẹp nhất đi xa” (Chiếc ba lô). Khi ra trận, anh vương nặng nỗi nhớ người thương đến quay quắt: “Hình như/ Lúc em tiễn anh/ Không quay lại/ Góc rừng khuya nặng hạt sương buồn/ Võng giống tay em ôm anh ngủ/ Khẩu súng nằm nghiêng huýt gió lay” (Người vùng cao). Anh cũng quặn thắt tình cảm lứa đôi những tháng năm lửa đạn trong khắc khoải chia xa: “Tôi đi xa/ Người ấy phải bùa người ta/ Săn tìm người ta/ Bỏ quên tôi đắm chìm nơi lửa đạn” (Sám hối). Cảm nhận những mất mát thua thiệt như vậy nên người thơ này biết trân trọng đối tượng mình yêu: “Vàng bạc với đá quý/ Anh cất vào rương hòm khóa kỹ/ Nhưng em anh biết giấu vào đâu/ Thôi đành/ Nuốt em vào trong bụng” (Cất giấu).

Đặc biệt, với quê hương, Y Phương cũng ơn nghĩa lắm một quê hương nghèo khó mà sâu nặng biết bao: “Con là con trai của mẹ/ Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ/ Mang trong mình cơn sốt cao nguyên/ Mang trong mình ba sáu vết thương/ Ơn cây cỏ quê nhà/ Chữa cho con lành lặn” (Tên làng). Một quê hương mà những ngày đánh giặc đi xa, anh nhớ đến điệp trùng những người đi chân đất/ đó là sức mạnh được nhân lên gấp bội trong chiến đấu sao gần gũi, sao da diết đến vậy: “Những người đi chân đất/ Nhìn lại phía sau mình/ Đeo kính lên ru cháu/ Vườn cây chìm trong nắng/ Thấy mồ hôi lấm tấm trên lưng” (Bài ca những người đi chân đất). 
Một quê hương bịn rịn nhớ mong và thức dậy với rất nhiều dáng vẻ linh động: “Ngày xuống núi/ Mây vướng chân/ Lá trúc non cánh ong/ Tiếng lượn đi vòng/ Rồi chui vào quả lê ngọt/ Làm người ăn cũng xinh/ Núi như trăm voi rùng mình/ Suối như bạc ào ào chảy” (Người vùng cao). Và thẳm sâu trong anh là những nỗi nhớ quê nghĩa là nhớ về mẹ/ nhớ về những gì thân thuộc đã lặn sâu vào tiềm thức, từ những ngày ấu thơ và ở lại trong tâm trí: “Năm mươi tuổi mụ/ Sao lông tơ ria mép không cạo/ Năm mươi tuổi mụ/ Còn để mẹ giục tắm/ Sao thế hả con/ Đến bữa/ Mẹ gọi về ăn/ Con chỉ ngồi nhìn/ Mủm mỉm cười/ Sao thế hả” (Chín tháng).

Thế nên, người đàn ông, người thi sĩ đa cảm này dù ở đâu đi đâu thì hồn vía anh vẫn vọng về nơi ấy, về cái làng mà cha mẹ đã sinh thành, nuôi anh khôn lớn: “Ơi cái làng của mẹ sinh ra/ Có ngôi nhà xây bằng đá hộc/ Có con đường trâu bò đi kìn kịt/ Có niềm vui lúa chín tràn trề/ Có tình yêu tan tành tiếng thác/ Vang lên trời vọng xuống đất/ Cái tên làng Hiếu Lễ của con” (Tên làng).

Tính cách thơ của người trai trong quân ngũ Y Phương thường bắt đầu từ cảnh ngộ cụ thể, một khoảnh khắc tâm trạng mà tác giả bắt gặp, khai thác trong nhận biết mà anh dày công trải nghiệm. Đó là, một Y Phương yêu và nhớ biến ảo trong giấc mơ: “Bạn ơi nhìn kìa/ Hiu hiu gió rồi/ Từ xa xa/ Có một người/ Cưỡi lá vàng bay lại” (Lá vàng lại bay). Và nhiều lúc soi vào nhau, chàng trai cũng tự biến đổi mình: “Em/ Cơn mưa rào/ Ngọn lửa/ Có em về/ Anh mất dần thói xấu/ Biết ăn năn trước lúc bình mình” (Em/ Cơn mưa rào/ Ngọn lửa). Trong thể hiện này phải nhận thấy Y Phương có cách diễn đạt thật súc tích, thật mới lạ, vừa hồn nhiên đồng thời lại mang được dáng vẻ của thơ hiện đại: "Mùa hoa/ Người đàn bà/ Mặt đỏ phừng phừng/ Đủ sức vác đàn ông/ Chạy phăm phăm lên núi/ Mùa hoa/ Người đàn ông/ Mệt như chiếc áo rủ/ Vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ” (Mùa hoa).

***
Lại nhớ những ngày cuối khóa II, Y Phương đổ bệnh hiểm nghèo. Các bạn học thay phiên nhau vào chăm sóc anh ở Bệnh viện Bạch Mai. Tôi cứ nghĩ hồi ấy Y Phương không qua khỏi nên "chạy" khắp các tòa soạn báo chí hoặc Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam để "bán" bài, mong có chút nhuận bút ít ỏi giúp anh. Sau này Y Phương ra cuốn thơ Tiếng hát tháng Giêng có ghi lời tặng tôi: “Mãi mãi tao không quên ơn mày”. Tôi thì nghĩ khác. Chẳng riêng gì tôi mà bạn bè cả khóa xúm vào giúp anh cơ mà. Cũng là cái tình bạn đồng học, đồng bệnh... thơ văn tương liên nữa.
(0) Bình luận
  • Dòng chảy hiện sinh trong thơ hiện đại Việt Nam
    Trong triết học phương Tây hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh nổi bật như một cuộc đối thoại sâu sắc với thân phận con người, đặt ra những câu hỏi day dứt về sự tồn tại và mối quan hệ giữa cái hữu hạn - cái vô cùng.
  • Tổ quốc trong sáng tác của các cây bút trẻ
    Trong trái tim mỗi người con nước Việt, bóng hình đẹp đẽ và thiêng liêng, kiêu hùng và nhân hậu chính là Tổ quốc. Tổ quốc rạng ngời trên trang viết của bao thế hệ đi trước, rồi được kế thừa bởi thế hệ trẻ hôm nay. Mỗi tác giả có một cách thể hiện khác nhau về đề tài Tổ quốc, mỗi tác phẩm là một nét vẽ riêng về dáng hình Việt Nam, góp phần hình thành nên diện mạo chung của đất nước tráng lệ và linh thiêng trong văn chương nghệ thuật. Tiếp nối sự thành công và dấu ấn sâu đậm mà những cây bút thời kỳ trước ma
  • “Ngày về” - lời ru giàu cảm xúc về làng quê Việt Nam
    “Ngày về” được mở đầu bằng hình ảnh quen thuộc, dễ nhận thấy nhất của làng quê Việt Nam với những giá trị truyền thống thiêng liêng: “Cây đa, bến nước, sân đình/ Con đường gạch lát nối tình xóm thôn”.
  • “Bay qua Hồ Gươm” - trò chuyện cùng Hà Nội, về Hà Nội
    “Mơ là bồ câu trắng/ Bay qua Hồ Gươm xanh”, tác giả Huỳnh Mai Liên đã bật lên khao khát muốn được trở thành cánh chim nhẹ nhàng và tự do khám phá bầu trời Hà Nội ở cuối bài thơ Bay qua Hồ Gươm (cũng là tên tập thơ). Dường như cũng từ giấc mơ này, nhà thơ đã viết ra những vần thơ kể chuyện dẫn lối người đọc ngắm nhìn Hà Nội từ cao đến thấp, từ xa đến gần.
  • Thơ truyền thống trong thời đại số
    Thơ truyền thống là loại thơ viết theo đúng niêm luật, thường bó buộc trong các thể loại: Lục bát, Đường luật (Nhất, tam ngũ bất luận), song thất lục bát, thơ (bốn, năm, sáu, bẩy, tám) chữ… phải có vần điệu, cấu tứ rõ ràng và ngôn từ là phương tiện để nhà thơ biểu đạt, giãi bày tình cảm, tư tưởng tinh thần của tác giả. Trong thời đại số, thơ truyền thống vẫn được nhiều tác giả tiếp nối nhưng theo một hình thức mới, nội dung mới và nhà thơ không bị giới hạn bởi bất kỳ khuôn phép nào.
  • 50 năm văn học Việt Nam từ 1975: Thành tựu và xu thế
    Hội nghị Lý luận, phê bình Văn học lần thứ V diễn ra ngày 27/11 tại Hà Nội, quy tụ những nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình hàng đầu. Với chủ đề “50 năm văn học Việt Nam từ 1975: Thành tựu và xu thế”, hội nghị đã làm nổi bật bức tranh toàn cảnh văn học Việt Nam...
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Y Phương Một tính cách thơ của người trai trong quân ngũ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO