Cũng theo ông Dũng, đối với Singapore đất đai là tài nguyên quý nên họ rất tiết kiệm trong việc sử dụng đất. Với họ, gia tăng mật độ là việc không có lựa chọn, song so sánh với Hà Nội bằng những con số cụ thể, ông Dũng chỉ ra mật độ ở Hà Nội vẫn cao gấp đôi Singapore mặc dù Hà Nội xây nhiều nhà thấp tầng, còn ở quốc đảo này có nhiều nhà chọc trời.
Theo vị chuyên gia này, trên thế giới không có nước nào cấm xây nhà cao tầng, họ chỉ kiểm soát mật độ dân số chứ không kiểm soát hình thức xây dựng. Thế nhưng thực tế ở Việt Nam, theo ông lại đang tồn tại những câu chuyện khó hiểu. Ví dụ có dự án nằm xa nhà ga và các trạm phương tiện công cộng, xa đường lớn thì quy mô rất lớn và xây bất chấp quy hoạch đã có. Trong khi đó, có những dự án ngay sát nhà ga lại chẳng tận dụng để kết nối mà cũng chẳng cho tăng mật độ dân số.
Về vấn đề này, GS.TS.KTS Nguyễn Tố Lăng – nguyên Phó Hiệu trưởng Đại học Kiến trúc Hà Nội cho rằng, trong các chung cư cao tầng hiện nay ở Việt Nam, mật độ xây dựng còn quá cao do việc tận dụng không gian sử dụng; chưa nói đến việc gây áp lực cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, chất lượng sống trong các nhà cao tầng bị nhiều hạn chế về môi trường, thông thoáng và tầm nhìn. Việc thiết kế đô thị chưa được quan tâm đúng mức cho các tuyến phố, các lô phố trong đô thị nói chung và những khu vực có nhà cao tầng nói riêng.
Theo GS Nguyễn Tố Lăng, cần lựa chọn những khu vực thích hợp trong TP cho việc xây dựng tập trung cao tầng, bên cạnh đó là những không gian trống, cây xanh, mặt nước tạo được môi trường sống trong lành cho đô thị, không xây dựng cao tầng tràn lan; phải coi khu vực có cao tầng làm điểm nhấn cho cả không gian đô thị.
Rõ ràng tầng cao không phản ánh bức tranh về mật độ dân số, cần phải tách bạch hai câu chuyện ra. Thứ nhất là phải bàn câu chuyện mật độ dân cư và thứ hai là câu chuyện hình thức công trình. Và vì thế, quản lý nhà nước phải quản lý bằng vấn đề chuyên môn chứ không thể quản lý bằng cảm tính. TS.KTS Nguyễn Đỗ Dũng |
Thực tế cho thấy, hệ thống đô thị Việt Nam trong những năm qua đã phát triển khá mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển của hệ thống nói chung và đặc biệt là các đô thị lớn nói riêng đã góp phần duy trì tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. Bộ mặt kiến trúc đô thị đang từng bước thay đổi nhanh chóng theo hướng hiện đại, phản ánh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, nhìn chung chất lượng đô thị ở nước ta còn thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị trong những năm qua, tuy đã được cải thiện và nâng cấp, thể hiện qua các mặt như: Nhiều tuyến đường mới được xây dựng; chất lượng đường đô thị dần được cải thiện; các đô thị loại III trở lên hầu hết đã có các tuyến đường chính được nhựa hóa và xây dựng đồng bộ với hệ thống thoát nước, vỉa hè, chiếu sáng và cây xanh, nhưng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu. Kết cấu hạ tầng đô thị yếu kém, quá tải không những không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đô thị, mà còn nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường.