Trống Kính Hoa kể chuyện hai ngàn năm có lẻ

GS.TS Trịnh Sinh| 09/08/2022 07:49

Trống đồng Kính Hoa đã được Nhà nước xếp hạng là Bảo vật quốc gia năm 2020. Đấy là chiếc trống đồng được xếp vào nhóm 5 chiếc trống đẹp nhất, di sản độc đáo của Việt Nam. Qua nghiên cứu, tìm tòi, các nhà khảo cổ đã giúp trống kể chuyện mình từ lúc ra đời, cách đây hơn 2.000 năm.

Trống Kính Hoa  kể chuyện hai ngàn năm có lẻ
Trống đồng Kính Hoa - Ảnh: Trịnh Sinh

Thêm một chiếc trống cổ thuộc văn hóa Đông Sơn 
Đã 40 năm trôi qua, khảo cổ học Việt Nam chưa phát hiện thêm chiếc trống Đông Sơn nào trong nhóm A1 đẹp nhất. Chiếc trống thuộc nhóm này được phát hiện lần cuối là trống đồng Cổ Loa tìm thấy trong lòng đất khu Mả Tre, cạnh lớp thành Trung của thành Cổ Loa, năm 1982. Nay thì trống này được trưng bày tại Bảo tàng Hà Nội. Thế là di sản trống đồng Đông Sơn được các nhà khảo cổ học bổ sung trống Cổ Loa vào nhóm trống hàng đầu thành 4 chiếc: Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Cổ Loa. 
Trống đồng Ngọc Lũ thì đã quá nổi tiếng, đào được trong lòng đất tỉnh Hà Nam vào khoảng năm 1893, được thờ trong đình làng Ngọc Lũ cho đến khi Viện Viễn Đông Bác cổ mang về Hà Nội, nay được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Trống đồng Hoàng Hạ được nhân dân tìm được ở độ sâu 1,5m trong khi đào mương ở xóm Nội Thôn, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, Hà Nội vào năm 1937 và hiện nay cũng đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Trống đồng Sông Đà thì lưu lạc tận bên Cộng hòa Pháp từ năm 1889 khi được mang từ Việt Nam sang trưng bày tại cuộc đấu xảo quốc tế ở Paris. Sau đó trống ở hẳn bên Pháp và hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Guimet, trung tâm Paris hoa lệ. 
Cả 4 chiếc trống vừa kể đều có hình dáng cân đối, kích thước lớn, đường kính mặt trống khoảng gần 80cm. Chỉ trừ 1 chiếc trống lưu lạc bên Pháp, còn 3 chiếc đã được Nhà nước xếp hạng là bảo vật quốc gia với những tiêu chí cơ bản là: trống còn nguyên vẹn, dáng đẹp, hoa văn trang trí hình người múa hóa trang, nhà sàn, chim bay, thuyền, các động vật, kỹ thuật đúc hoàn hảo…
Trống Kính Hoa  kể chuyện hai ngàn năm có lẻ
Hoa văn trên thân trống Kính Hoa - Nguồn: Trịnh Sinh
Gần bốn mươi năm qua, đất nước đổi mới, nhiều công trình xây dựng đã đào móng sâu xuống đất, xẻ mương thuỷ lợi, làm đường xây nhà khắp nơi nhưng chưa tìm ra thêm một chiếc trống nào đủ tiêu chí của nhóm 4 chiếc trống đầu bảng này. Đó là vì nhiều trống đẹp như vậy, kích thước lớn như vậy đã bị “hủy hoại” từ khi nhà Hán mới sang ta, với chính sách “tận thu trống đồng để đúc ngựa đồng và cột đồng Mã Viện”. Số “lọt lưới” còn lại thì cũng đã được người Việt chôn giấu trong lòng đất suốt 2.000 năm, thất lạc, đời sau biết đâu mà tìm? Vì thế, việc tìm ra trống Đông Sơn đã khó, mà trống đẹp lại càng khó hơn. Chỉ có may mắn mới có thể gặp được thêm một chiếc trống quý để bổ sung thêm vào danh sách 4 chiếc trống hàng đầu nói trên. Trống Kính Hoa xuất hiện trong bối cảnh như vậy. Trống được các nhà khoa học xếp vào cùng nhóm với 4 chiếc trống Đông Sơn đẹp nhất đã có. Và như vậy di sản trống đồng đẹp nhất nước ta có thêm một thành viên thứ 5 là trống Kính Hoa. 
“Truân chuyên” buổi ban đầu

Trống được phát hiện ngay trong lòng đất ở một vùng quê ven sông Hồng. Ngay sau đó, các nhà sưu tập đã thính tai, biết được, lập tức tìm đến và “hạ tiền” mua ngay.  Qua một thời gian lưu lạc trong giới sưu tập cổ vật và cuối cùng chiếc trống cổ này đã đến tay một doanh nhân yêu cổ vật ở Hà Nội - ông Nguyễn Văn Kính (quận Tây Hồ, TP. Hà Nội). Trống được ông Kính bày trang trọng trong nhà và mời mọi người am hiểu trống đồng đến xem, có cả giới sưu tập đồ cổ đất Hà Thành, giới nghiên cứu trống đồng, giới đúc trống đồng ở các làng nghề Thanh Hóa. Tất cả (100%) số người xem trống đều khẳng định đây là trống giả bởi họ cho rằng làm sao có được chiếc trống đồng kích thước to và hoa văn người hóa trang như vậy lại còn có thể tồn tại cho đến ngày nay. Còn có lý do nữa là bây giờ trống đồng đúc giả trên thị trường rất nhiều, thật giả lẫn lộn. Mà chủ yếu là trống giả chứ mấy khi gặp trống thật? Trống giả cũng to như thế, hoa văn nhang nhác như thế…
Trống Kính Hoa  kể chuyện hai ngàn năm có lẻ
Hoa văn trên mặt trống Kính Hoa - Nguồn: Trịnh Sinh
Để xác định rõ thật giả, chủ nhân sở hữu trống đồng bèn cho người tìm khắp nơi xem có ai giám định trống đồng uy tín để hy vọng có được cái kết luận giám định chính xác là trống giả thì có cớ trả lại cho người ta. Thế rồi, mọi chuyện vòng vèo cũng đến Viện Khảo cổ học… Tôi may mắn được mời giám định. Lúc đầu khi chưa nhìn tận mắt, cũng nghĩ giờ làm gì có trống thật. Thôi thì người ta mời thì mình cũng đi xem để biết.
Thực mục sở thị, tôi mới sững người. Cảm giác ban đầu là trống khá hoàn hảo. Tôi đã dùng đến 10 phương pháp giám định, từ phân tích hoa văn, kỹ thuật đúc, dấu vết thời gian để lại trên trống, dùng khoan để lấy mẫu đồng phân tích thành phần hóa học, dùng hóa chất để thử… Tất cả các tiêu chí đều “lọt” qua. Với kinh nghiệm nghiên cứu trống đồng nửa thế kỷ, có “tu luyện” thêm ở bên Liên Xô trước đây (hoàn thành luận án Tiến sĩ về phân tích thành phần hóa học trong đồ đồng cổ), Hoa Kỳ, Nhật Bản… đã giúp cho việc khẳng định đây là chiếc trống đồng đích thực quý giá của tổ tiên người Việt.
Sau thủ tục làm biên bản ký xác nhận, có đóng dấu của Hội Di sản văn hóa Việt Nam thì số phận chiếc trống cổ đã được an bài. Không còn ai thắc mắc về chuyện trống giả hay thật nữa… Trống được đặt tên là Kính Hoa (theo tên chủ nhân của bảo vật, là một đại gia hoa lan người Tây Hồ, Hà Nội); được các Hội đồng khoa học từ Sở Văn hóa Hà Nội đến Cục Di sản Bộ Văn hóa, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia xem xét, nâng lên đặt xuống và cuối cùng thống nhất xếp hạng là Bảo vật quốc gia, có giấy chứng nhận của Phó Thủ tướng ký.
Mọi chuyện từ bấy suôn sẻ, đã có 2 cuốn sách chuyên khảo về trống Kính Hoa do Nhà xuất bản Thế giới in, có nhiều bài báo lớn viết bài, có chương trình về trống chiếu trên VTV1, chương trình quay phim 3D, các chương trình nói chuyện như buổi nói chuyện ở Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội… Tuyệt nhiên, không có bất kỳ ý kiến phản hồi nào nghi ngờ về tính chân xác của chiếc trống cổ nữa.
Hoa văn kể chuyện cảnh quan và chủ nhân đúc trống

Trống Kính Hoa có dáng cân đối, mặt trống hình tròn, rìa mặt chưa chờm ra khỏi tang. Thân trống được chia thành 3 phần rõ rệt: phần trên là tang trống, có độ nở đều, phần giữa là lưng trống có hình gần nón cụt, phần dưới là chân trống hơi loe. Giữa tang và lưng của trống có 4 cặp quai trống, nằm đối xứng qua trục tâm trống. Đường kính trung bình mặt trống: 89cm. Đường kính chân trống: 98,5cm. Chiều cao thân trống: 59,5cm. Chiều cao của quai trống: 9,6 cm. Cân nặng của trống: 110 kg.
Trống được trang trí hoa văn đẹp: Giữa mặt trống có hoa văn ngôi sao đúc nổi có 10 cánh nhọn. Giữa mỗi cánh sao được trang trí hình 1 cặp “Giao Long”, tổng số có 10 cặp như vậy. Xung quanh hình ngôi sao giữa mặt trống có 13 vành hoa văn với độ rộng không đều nhau, miêu tả các mô típ hình động vật và các hoa văn hình học: 10 hoa văn hình con sam biển, hình 16 thú đuôi dài có thể là cáo, hình 21 con chim Lạc dang cánh bay.
Tang trống cũng có những hoa văn đẹp: ngoài các tổ hợp hoa văn hình học làm nền còn có vành hoa văn: 6 chiếc thuyền nối đuôi nhau, trên thuyền có 6-7 người đội mũ lông chim, có người cầm giáo, có người chèo thuyền. Trên thuyền có cả lầu có người ngồi chắc là người chỉ huy cuộc đua. Xen giữa các thuyền là hoa văn chim đậu trên lưng cá sấu, hình sàn nhà có đôi chim đang xoè cánh, hình hươu, chó…
Trên lưng trống có hoa văn hình học làm nền, chia ra 8 ô hình chữ nhật. Trong mỗi ô đều có chung một chủ đề: một con chim bay thẳng đứng hướng lên phía trên. Phía dưới hình chim bay là hai người đội mũ lông chim đang múa. Chân trống không trang trí hoa văn Hoa văn trên trống Kính Hoa miêu tả những động vật thuộc về biển, cận biển, đầm lầy. Đó là hoa văn hình con sam biển, hình cá sấu. Chính những cư dân Đông Sơn với môi trường cận biển như vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ mới là người đúc trống Kính Hoa, mới phản ánh cuộc sống, cảnh quan của vùng đất mà họ sinh sống lên hoa văn trống chứ không phải là cư dân vùng núi cao xa biển như Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) đã đúc trống đồng và mang đến vùng Bắc Bộ nước ta. 
Hoa văn trên quai trống Kính Hoa là hoa văn bông lúa, đã gián tiếp nói về cuộc sống nông nghiệp trồng lúa của cư dân đúc trống, lúa gạo là thực phẩm chủ yếu của họ. Họ đã biết đúc đồng thành thạo để tạo ra những tác phẩm tuyệt mỹ như trống đồng Kính Hoa, biết pha chế hợp kim ba thành phần đồng, chì, thiếc để đúc trống là kỹ thuật cao trong thời điểm cách đây hơn 2.000 năm, khi mà nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á chưa có kỹ thuật đúc giỏi như vậy. Họ không còn phải mặc quần áo bằng vỏ cây như nhiều tộc người ở các đảo Đông Nam Á vẫn còn sử dụng mà đã biết dệt vải, may quần áo. Dấu tích vải vẫn còn thấy trên mặt trống Kính Hoa. Trong ngày hội, họ đã có bộ quần áo hóa trang, trên đầu cắm lông chim.  
Chủ nhân của trống Kính Hoa đã ở nhà sàn, trên tang trống Kính Hoa còn có hoa văn miêu tả một sàn nhà có 4 cây cột rõ nét. Vậy là, chuyện ăn, mặc, ở và sản xuất nông nghiệp, luyện kim đã được trống Kính Hoa kể lại qua các hoa văn, vết tích để lưu truyền cho hậu thế.
Bước đầu, nghiên cứu trống đồng Kính Hoa, các nhà khoa học đã thu được một số thành quả khoa học và dựng được một phần bức tranh lịch sử đương thời của một cộng đồng người Việt cổ, cư dân Đông Sơn. Đấy cũng là những cư dân của vua Hùng trong thời dựng nước.
(0) Bình luận
  • “Bóng của hoa” trên những trang thơ trữ tình đậm chất Hà Nội
    Sau hai tập thơ “Lửa lá” (2009) và “Vườn tôi nở đóa vàng bông” (2013), nhà thơ Đặng Minh Kính - hội viên Hội Nhà văn Hà Nội vừa ra mắt bạn đọc tập thơ “Bóng của hoa” (NXB Hội Nhà văn, 2024). Tôi cứ ngỡ rằng, trên những trang thơ trữ tình giàu cảm xúc tinh tế của nữ tính, đậm chất Hà Nội nơi chị đang chập chờn, ẩn hiện những “Bóng của hoa” đầy thi vị với những suy tưởng khá lắng đọng.
  • Một phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại
    Quá trình biến đổi Hà Nội từ khu nhượng địa trở thành một thành phố hiện đại kiểu phương Tây, một “Paris thu nhỏ” của chính quyền thực dân vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã được nhà nghiên cứu Đào Thị Diến phản ánh chi tiết trong cuốn sách “Hà Nội thời cận đại - từ nhượng địa đến thành phố (1873 - 1945)”. Với nguồn tư liệu quý từ hồ sơ lưu trữ, cuốn sách không chỉ phác thảo toàn diện về Hà Nội thời cận đại mà còn góp phần giải mã sự thật lịch sử.
  • Một số gợi mở trong thẩm định thơ
    Nhìn chung đánh giá về việc đọc sách văn học của công chúng, có thể theo nhiều khía cạnh, đồng sáng tạo, kích thích người viết sáng tác, bồi bổ thẩm mĩ, tích lũy tri thức, phát triển đời sống văn hóa… với những hiệu quả tích cực. Nhưng còn có những tồn tại theo chiều hướng ngược lại, mang tính nguy cơ hơn là cơ hội tốt, phản ánh sự trì trệ hơn là phát triển. Đó là sự dễ dãi trong việc đọc, thẩm định thơ từ cả người đọc lẫn người sáng tác, truyền tải.
  • Chi tiết trong sáng tạo của nhà văn
    Chúng ta đều từng quen câu nói của văn hào Nga Macxim Gorki: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả vậy! Chi tiết trong văn xuôi chỉ là một thứ nhỏ, rất nhỏ so với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật,…
  • Vũ Quần Phương với thơ hay
    Quan sát các nhà thơ viết phê bình tôi thấy rằng vì có sáng tác, nên phê bình của họ thường giàu cảm xúc, thuyết phục bạn đọc bởi sự tinh tế, thành thục của người có nghề, cùng làm nghề với tác giả được bình. Mặt khác, là người cũng từng thai nghén, mang nặng đẻ đau tác phẩm, nên nhà thơ bình thơ thường có sự cảm thông, trân trọng và sẻ chia. Các nhà thơ bình thơ thành công trước đây phải kể đến Xuân Diệu, Chế Lan Viên. Lớp kế tiếp có Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hoàng Sơn...
  • Văn nghệ sĩ trong Hà Nội tạm chiếm
    Sống trong Hà Nội tạm chiếm những năm 1947-1954, đời sống văn nghệ sĩ hết sức khó khăn. Nguyễn Minh Lang, Hoài Việt, Minh Tân, Thùy Linh, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Tô Kiều Ngân, Thy Ngọc... đều sống bằng nghề dạy học ở trường tư. Nhà thơ Giang Quân trông nom một hiệu sách mang tên Quốc Việt ở 274 phố Khâm Thiên.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Huyện Thanh Oai: Đẩy mạnh triển khai Chỉ thị 30-CT/TU với tuyên truyền các Quy tắc ứng xử
    Huyện Thanh Oai đề cao và phát huy vai trò cá nhân của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; vai trò trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, mỗi gia đình trong xây dựng và giữ gìn môi trường văn hóa lành mạnh.
  • Các xã, phường mới của Hà Nội sau khi sáp nhập
    Sau khi sắp xếp lại, Hà Nội có 526 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 160 phường, 345 xã và 21 thị trấn.
Đừng bỏ lỡ
Trống Kính Hoa kể chuyện hai ngàn năm có lẻ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO