Bà i học từ giai đoạn trước cho thấy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai chính sách nà y để phát huy tốt hiệu quả của mỗi chính sách, góp phần thực hiện mục tiêu của Chính phủ.
Theo TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hà ng (Ngân hà ng Nhà nước), chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá là hai công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của bất cứ quốc gia nà o. Tuy mỗi chính sách đửu có mục tiêu riêng nhưng chung quy lại đửu cùng theo đuổi mục tiêu của quản lý kinh tế vĩ mô là tăng trưởng kinh tế bửn vững, kiểm soát lạm phát và công ăn việc là m cao.
Từ mở đến thắt
TS. Hoà ng Huy Hà , Phó tổng giám đốc BIDV nhận định, trong 2 năm gần đây, chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá đã 3 lần được điửu chỉnh để đối phó với những biến động của kinh tế trong nước và thế giới, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tà i chính và suy thoái kinh tế toà n cầu.
Cụ thể, sau giai đoạn mở rộng cả chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ nửa cuối năm 2007 đến nửa đầu năm 2008, chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá được điửu chỉnh theo hướng thắt chặt để đối phó với lạm phát, mà đỉnh cao là việc nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm và o tháng 6/2008.
Sự phối kết hợp giữa chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá, nhất là trong quá trình điửu hà nh, ở một chừng mực nhất định còn thiếu sự phối hợp, hay thậm chí là lệch pha nhau.
Tuy nhiên, từ cuối năm 2008, nguy cơ lạm phát cao tạm thời lắng xuống. Để từng bước phục hồi kinh tế, tạo đà cho tăng trưởng GDP, Chính phủ chủ trương nới lửng hơn chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá trên cơ sở bám sát theo dõi và phản ứng linh hoạt với diễn biến thị trường.
Việc nới lửng hai chính sách nà y đã góp phần quan trọng và o tăng trưởng GDP khi chỉ số nà y liên tục tăng qua các tháng, nhưng theo TS. Võ Trí Thà nh, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cái giá phải trả là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại cũng nhưng rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô.
Bởi vậy, Chính phủ bắt đầu phát đi những tín hiệu thắt chặt chính sách tiửn tệ, cụ thể là động thái nâng lãi suất cơ bản lên 8%/năm kể từ ngà y 1/12/2009 của Ngân hà ng Nhà nước.
Những động thái vừa qua của Ngân hà ng Nhà nước cho thấy, đang có một sự dịch chuyển nhất định trong điửu hà nh chính sách, từ kích thích kinh tế để duy trì tăng trưởng sang mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện qua các quyết định vử lãi suất, tỷ giá và một số biện pháp giám sát, kiểm soát tín dụng vừa qua, ông Thà nh nói.
Mặt khác, để đạt được mục tiêu nói trên rất cần sự phối hợp của chính sách tà i khoá bởi theo ông Thà nh, chính sách tà i khoá mặc dù đã chặt hơn đôi chút nhưng so với những năm trước thì vẫn được nới lửng, thể hiện ở con số thâm hụt ngân sách được Quốc hội quyết định là 6,2% trong năm 2010.
Là m thế nà o để không lệch pha
Mặc dù vậy, theo đánh giá của TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, trên thực tế, sự phối kết hợp giữa chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá, nhất là trong quá trình điửu hà nh, ở một chừng mực nhất định còn thiếu sự phối hợp, hay thậm chí là lệch pha nhau.
Ví dụ trước tháng 6/2007, chính sách tiửn tệ được nới lửng quá mức khiến cung tiửn trong lưu thông tăng vọt, trong khi mức độ mở rộng của chính sách tà i khoá thấp hơn nhiửu so với chính sách tiửn tệ khiến nửn kinh tế không thể hấp thụ được nguồn vốn lớn, hiệu quả đầu tư thấp, nhập khẩu lạm phát từ nước ngoà i.
Hay như cuối năm 2007, đầu năm 2008, trong khi chính sách tiửn tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiửm chế lạm phát thì chính sách tà i khoá lại nới lửng khiến áp lực lạm phát và lãi suất tăng. Chỉ đến khi những dấu hiệu lạm phát trở nên rõ rà ng, chính sách tà i khoá mới được điửu chỉnh lại.
Bởi vậy, theo TS. Võ Trí Thanh, để hạn chế những ảnh hưởng bất lợi giữa hai chính sách, nâng cao hiệu quả điửu hà nh, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiửn tệ và chính sách tà i khoá, sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa Bộ Tà i chính và Ngân hà ng Nhà nước, đảm bảo thống nhất mục tiêu và có sự cân nhắc tác động trái chiửu của các chính sách.
Trên cơ sở đó, trong quá trình thực thi, sự phối hợp sẽ được thể hiện trong các vấn đử: bù đắp thâm hụt ngân sách, điửu tiết cung tiửn, liửu lượng tham gia của mỗi chính sách...
Sự phối hợp nà y còn phụ thuộc và o hiệu lực của bản thân hai chính sách: số nhân của chính sách tà i khoá thông qua thay đổi thuế, thay đổi chi tiêu của Chính phủ; tác động của lãi suất lên tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm trong chính sách tiửn tệ...
Đấy là chưa nói đến bối cảnh thực hiện của mỗi chính sách: chính sách tiửn tệ trong môi trường đô la hoá cao, chỉ số ICOR... Độ trễ của mỗi chính sách cũng là một vấn đử vì quy trình quyết định các chính sách nà y không giống nhau.