Bìa sách Tiếng Việt lớp 1 |
Qua nửa học kử³ một, bác Trần Toà n (quận 5, TP.HCM) một cán bộ vử hưu than thở: "Tôi đã cho cháu đi học thêm tuần ba buổi cô giáo của cháu ở lớp, lại học ở trường điểm ở quận, vậy mà hai ông cháu hà ng ngà y vẫn "đánh vật" với môn tiếng Việt. Có lẽ phải thuê gia sư mất".
Theo lý giải của bác Toà n, có những từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 mà ông không sao diễn tả cho cháu hiểu được. Nếu chỉ đọc như một con vẹt thì cháu sẽ chóng quên. Bác thắc mắc, tại sao khi dạy ghép vần, các nhà sư phạm không chọn những từ dễ hiểu, gần gũi trong cuộc sống và dễ hình dung.
Bác bức xúc: ở bà i 11 ôn tập, có từ "vơ cử", là m sao trẻ con thà nh phố có thể hiểu nghĩa từ nà y là gì? Tiếp đến bà i 21 có từ "xe chỉ", từ nà y phải ở thời các cụ, còn nghử dệt vải thì mới hiểu được, còn bây giử, sao không lấy những từ ngữ thường dùng nhất trong đời sống hà ng ngà y?
Chị Thu Hà , Quận 1, cũng liệt kê một loạt từ mà chị cho rằng, các nhà soạn sách đã không hử chú ý đến việc ở tuổi bỡ ngỡ đến trường, các cháu không thể hiểu được: từ "phố xá" bà i 22, đây là một từ khá trừu tượng, ngay cả với em ở thà nh phố, nói gì đến nông thôn và miửn núi, giá như người ta thay bằng từ "phố cổ" còn đỡ tức!
"Liệu các nhà soạn sách có thể thay giùm chúng tôi những từ như "ý nghĩ" (bà i 27), "xưa kia" (bà i 30), "trỉa đỗ" (bà i 31), "lau sậy" (bà i 39), "kêu gọi" (bà i 40), "mưu trí" (bà i 42)"vun xới" (bà i 48), "vườn ươm", "cháy đượm" (bà i 66)...bằng những từ đơn giản và dễ hiểu hơn không?", chị Hà cho biết.
Một số tính từ khó hiểu mà nên dà nh cho học sinh lớp 2 trở lên như "mơn mởn" (bà i 46), "yên vui" (bà i 49), "cuồn cuộn" (bà i 51), "phẳng lặng" (bà i 53), "đông nghịt" (bà i 73), "bát ngát" (bà i 75), "chênh chếch" (bà i 82). Các nhà giáo dục có thể nghĩ được những tính từ mà trẻ con 6 tuổi hình dung dễ dà ng hơn không?
Có cần thiết có những câu văn vẻ và quá dà i cho trẻ ngay trong học kử³ đầu của lớp 1? |
Theo chị Hà , cho bé đọc một câu dà i quá 5 chữ ngay từ những bà i đầu lớp 1 là quá sức. Vừa và o lớp 1, bé đột ngột chuyển từ việc chơi sang học một lúc quá nhiửu môn, tập viết, tập đọc, là m toán mà khối lượng học tập lớn như vậy thì không tránh khửi gia đình phải cho con đi học thêm thì mới theo kịp được bạn bè. Chả trách, người ta đã phải cho con đi học chữ từ bậc mẫu giáo.
"Chẳng hạn như bà i 18, các cháu lớp một đã gặp ngay một câu dà i ngoằng: "bò bê có cử, bò bê no nê", đó là chưa kể, khó mà giải thích cho các con từ "no nê" là gì. Bà i 14 cũng tương tự: "dì na đi đò, bé và mẹ đi bộ", là một câu phức vì có dấu phảy, tại sao không là một câu đơn cho dễ dà ng cho các con?"
"Có những câu rất hay như "Gà mẹ dẫn đà n con ra bãi cử...", rất dễ hình dung với trẻ thì các nhà soạn sách lại đưa và o ít, họ lại đưa và o bà i những câu văn vẻ dà i dòng: "Mùa thu, bầu trời như cao hơn. Trên già n thiên lí, lũ chuồn chuồn ngẩn ngơ bay lượn". Xin hửi các nhà giáo dục, sao không là m câu văn gọn gà ng hơn, sao lại là m trí tưởng tượng của các em quá sức thế?", anh Xuân Trường, quận Đống Đa, Hà Nội cho biết.
Chị Thu Hà cho biết, năm nay TP.HCM đang triển khai giáo trình tiếng Anh tăng cường có tên "Family and friends" của nhà xuất bản Oxford, dà nh cho trẻ học từ lớp 1. Khi dạy con học, chị nhận ra, nhà viết sách chỉ dùng những từ rất gần gũi với cuộc sống hà ng ngà y, khối lượng vốn từ không nhiửu và rất dễ hình dung. Đó là chưa kể, các bà i học đửu có một bà i hát, hoặc đọc từ theo nhạc (gọi là "chant") để bớt nhà m chán. "Có lẽ trong tương lai, chúng ta cũng cần có audio kèm theo sách tiếng Việt để bà i học sinh động hơn, hấp dẫn trẻ con hơn", chị Hà nói.