Theo Sách Đại Việt sử ký toàn thư vử nguồn gốc loại nhạc nà y có viết: Mùa thu, tháng 7 năm Ất Sửu (1025) đời Lý Thái Tổ... Định lại các khoản quản giáp. Chỉ con hát mới được gọi là quản giáp. Khi ấy có con hát là Đà o thị, giửi nghử hát, thường được thưởng, người bấy giử hâm mộ tiếng của Đà o Thị, cho nên phà m con hát đửu gọi là đà o nương.
Như vậy, có thể thấy người con gái hát giửi kia là họ Đà o. Sau nà y ai là m nghử đó đửu được gọi là Đà o hát. Đà o nương hay ả Đà o đửu có nghĩa ám chỉ người con gái là m nghử hát xướng. Có thể có nhiửu tên gọi cho nghệ thuật hát nà y ở từng địa phương, từng thời điểm như hát ca trù còn gọi là hát ả đà o, hát cô đầu, hay hát nhà tơ... Tuy nhiên, dù có tồn tại ở dạng tên gọi nà o thì sự tồn tại của ca trù luôn gắn liửn với các đà o nương không có đà o nương bất thà nh ca trù, khi nói đến ca trù không thể không nói tới đà o nương. Để trở thà nh một đà o nương cũng không phải là chuyện dễ, phải hội được nhiửu tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ, lòng đam mê và kiên trì... sự tồn tại của ca trù được quyết định bởi chính các đà o nương. Các đà o nương chính là những người truyửn tải và thể hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngà y nay.
Theo sử sách ghi chép lại, được dân gian thừa nhân thì hẳn bộ môn nghệ thuật nà y phải được nuôi dườ¡ng từ bao đời. Nếu theo sách sử thì nghử hát ả Đà o xuất xứ từ đất Thăng Long “ nơi hội tụ những bậc vương tôn, công tử, khách phong lưu với những nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh thần phong phú. Kinh thà nh có thể là nơi xuất xứ hoặc ít nhất nơi đây cũng là mảnh đất mà u mỡ là m cho nghệ thuật hát nà y được thăng hoa.
Trong những tên gọi cho môn nghệ thuật hát nà y thì tên hát ả đà o và hát ca trù được mọi người biết đến nhiửu hơn cả. Cái tên ả đà o được ra đời từ ban đầu với ý nghĩa là gọi tên những người theo nghiệp ca xướng còn tên ca trù thì có thể giải thích theo lối triết tự: ca nghĩa là hát còn trù nghĩa là tre. Ngà y xưa giấy bút ghi điểm còn hiếm. Những người thưởng thức ả đà o hát mà thường là vương tôn, công tử, quý tộc, phú hà o có trong tay mỗi người một bó thẻ tre do chủ đoà n hát mang tới. Khi đà o hát tới chỗ hay mà người nghe tâm đắc thì tùy theo ý và sự hà o phóng của từng người mà ném thẻ thưởng. Sau khi tà n canh hát, ả đà o cứ đem thẻ của mình và o nơi tổ chức cuộc vui mà lĩnh thưởng. Nếu quy định mỗi thẻ một tiửn, thì 60 thẻ được lĩnh một quan tiửn.
Đó chính là xuất xứ của ca trù và sau ngà y người ta dùng luôn nó để nói vử nghệ thuật hát ả đà o nhưng nó chỉ mang ý nghĩa phiếm chỉ chứ không đúng với nguồn gốc hình thà nh nghệ thuật hát nà y.
Ngay từ xa xưa, hát ả đà o còn được dùng và o loại hát thử thần mà thường gọi là hát cửa đình. Trong những ngà y lễ hội, bên trong đình, đửn, các viên quan tiến hà nh cuộc tế lễ còn ngoà i cửa đình thì các phường cứ múa hát. Ngà y xưa các đà o hát phải biết múa và cuộc hát nà y không chỉ phục vụ cho thần linh mà còn phục vụ cho cả người xem. Cuộc hát cũng phải có bà i bản để ăn nhập với nội dung của cuộc tế, thể hiện được sự thà nh kính của con người đối với các vị thần linh thiêng. Chính vậy mới thể hiện được thần “ người hòa hợp, thần gắn bó mật thiết với con người. Nghệ thuật nà y không chỉ sử dụng trong hát cửa đình mà đã được vời và o hát trong cung đình, nhiửu nhà già u có hiếu hỉ cũng đón phường hát vử nhà .
Đặc biệt đối với các giới tri thức, quý tộc có nhu cầu thưởng thức thơ đã đón phường hát vử nhà hoặc lập ra hẳn một ban hát, viết lời cho đà o hát để biểu diễn thường xuyên ngay trong dinh thự như Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật hoặc Chiêu Quốc Vương Trần àch Tắc thời nhà Trần.
Nghệ thuật hát ả đà o thực sự đã trở thà nh một môn nghệ thuật đáng tự hà o của dân tộc. Trong dân gian vẫn còn nhắc tới giai thoại một đà o hát dùng tiếng hát của mình để giết chết kẻ thù xâm lược. Đó là và o đầu thế kỷ 15, ở vùng Hưng Yên ngà y nay có một đà o hát nổi tiếng. Bà mở ca quán cùng tửu quán. Khi giặc Minh và o quán, bà hát cho chúng nghe, chuốc rượu cho chúng uống say. Giọng hát tiếng đà n quyến rũ cùng với những hũ rượu ngon tẩm độc đã khiến cho quân giặc gục ngã hà ng loạt. Bà sai người tống và o bao tải và vứt xuống sông.
Giặc tan, bà được nhà vua khen thưởng và khi mất bà được dân lập đửn thử, triửu đình còn ban cấp ruộng đất để quanh năm hương khói, phong bà là m phúc thần. Nơi đó vẫn còn tên gọi là Đà o xá tức là là ng của bà họ Đà o thuộc huyện à‚n Thi, Hưng Yên bây giử.
Hát ả đà o được tổ chức chặt chẽ thà nh phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai quản. Hát ả đà o có qui chế vử sự truyửn nghử, cách học đà n học hát, có những phong tục trong sự nhìn nhận đà o nương rà nh nghử, như lễ mở xiêm áo (thầy cho phép mặc áo đà o nương để biểu diễn chính thức lần đầu tiên trong đình là ng gọi là hát cửa đình), có những qui chế vử việc chọn đà o nương đi hát thi (ngoà i tà i năng và sắc diện cần phải có đức hạnh tốt).
Nâng hát ả đà o lên thà nh một môn nghệ thuật, một thú chơi tao nhã, một loại nhạc thính phòng của giới quý tộc, thượng lưu, nho sĩ mới thực sự chỉ bắt đầu từ thời Lê “ Nguyễn. Và chỉ có mảnh đất kinh thà nh Thăng Long, nơi hội tụ những con người hà o hoa mới có những nữ ca, những nhạc công tà i năng tạo nên một nghệ thuật hát ả đà o là m đắm say lòng người. Những nghệ sĩ tà i hoa khi ấy đã được đại thi hà o Nguyễn Du tử lòng tôn kính và tiếc nuối trong bà i Long thà nh cầm giả ca trong khi xã hội coi các đà o hát là xướng ca vô loà i, điửu đó thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc trong con người Nguyễn Du.
Nghệ thuật hát ả đà o sang thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20 đã nâng tới mức độ hoà n chỉnh với những nhà nho lừng danh đặt lời cho bà i hát như Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến... khiến cho loại nhạc “ thơ nà y trở nên hấp dẫn người nghe vô cùng. Nghệ thuật hát ả đà o thực sự để được nâng tới tầm nghệ thuật, thể hiện được sự tà i hoa, tinh tế đáp ứng được nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người Thăng Long thì đòi hửi phải có một thời gian dà i hình thà nh và phát triển trên mảnh đất phồn hoa đô thị như kinh thà nh Thăng Long.
Trải qua nhiửu quá trình biến đổi, nghệ thuật hát ả đà o vẫn còn mang những giá trị độc đáo riêng của nó và xứng đáng được UNESCO công nhận đây là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.