Người câu gió - bài thơ đượm ánh thiền

TSKH NGUYỄN THÀNH HƯỞNG| 24/11/2021 09:44

Có lẽ bắt nguồn từ sự thôi thúc nội tâm về nhận thức vũ trụ và con người mà nhà thơ Hoàng Vũ Thuật muốn “truy vết” căn nguyên “lối đi/gương mặt của gió”. Khi đã xác quyết như thế, thi sĩ đã “nhẫn nại ngồi câu trên đồi”. “Người câu gió” là bài thơ đầy ẩn dụ đượm màu thiền định qua các hình ảnh “sợi dây mảnh mai/ những con diều làm mồi với đôi cánh mỏng” cũng như sự vô thường, vô ngã qua “gió thổi căng phồng/ túi càn khôn rỗng rễnh”.

Hãy đọc:

NGƯỜI CÂU GIÓ

Không ai nhận ra lối đi của gió

không ai nhận ra gương mặt gió

anh nhẫn nại ngồi câu trên đồi

sợi dây mảnh mai

những con diều làm mồi với đôi cánh mỏng

gió và gió thổi căng phồng

túi càn khôn kè kè bên hông rỗng rễnh

một ngày câu hai bàn tay trắng trở về

một đời câu tóc xanh hóa thành tóc trắng

lịch trình gió buốt chưa thôi

gió vô hồi ngàn sau chưa hết

có nhận ra ta trong hữu hạn kiếp người.

HVT – 19.3.2021

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật

Người câu gió - bài thơ đượm ánh thiền
TSKH Nguyễn Thành Hưởng

Bài thơ hay, như một nhân duyên để nhớ đến đoạn đàm đạo trứ danh trong “Na tiên vấn đáp” giữa Tì-kheo Na-Tiên và vua Di-Lan để thấy biết cái vô sở trú, đại ý: Thưa đại vương, như gió kía đại vương có thể thấy chăng? có thể sờ, có thể nắm bắt chăng? tất nhiên là không, và đại vương có nói vì thế mà không có gió chăng? Thưa, đại vương có thấy lá phướn đang bay, ngọn cây đang lay, thấy thân mình được mát? Từ đó mà đại vương biết là có gió vậy.

Ở đây, để nhận biết và “câu” được gió, thi nhân đã lấy “những con diều làm mồi với đôi cánh mỏng”. Thiện xảo của hình tượng nghệ thuật ước dụ làm thấy được cái không thấy và hàm chứa nhiều thức nghĩa. Cánh diều càng mỏng, dây diều càng mảnh tựa hồ cho tâm nhạy bén, cho thi cảm phiêu bồng, thì càng dễ “câu” được gió; càng bền chắc tựa như sự định tâm càng cao thì càng “câu” được gió to của giông bão cuộc thế.

“Gió và gió

thổi căng phồng”

Là một cảm nhận từ “tưởng” đến “thọ”, từ trong ý niệm mà có thể sờ nắm bằng thi ngôn. Mà gió đâu chỉ ở đất trời. Phong đại sắc tướng và gió nội tâm chúng sinh mới thật là thâm diệu, là cái đưa đến và cũng là cái hiển bày cho sắc thân con người và chúng sinh. Gió, cái chất liệu không thể thiếu vắng trong đất-nước-gió-lửa tứ đại tạo nên sắc danh con người vẫn đang ngày đêm mải miết trong chúng ta. Gió đang tạo dựng sự sống và cho ta thấy được sự sinh diệt đang trùng trùng diễn bày. Một hơi thở vào, gió từ “càn khôn” đi vào trong ta, bão giông hay “rỗng rễnh” tuỳ ta.

“một ngày câu

hai bàn tay trắng trở về”

Đúng vậy, câu gió được gió, mà gió thì đâu thủ nắm cất trữ được. Thật may vậy, nếu câu gió mà được thứ khác thì sao đây? chắc hẳn biết bao người sẽ ùa đi để câu, rồi tham muốn xuất hiện, tranh đoạt xảy ra,… ôi thôi, đủ thứ. Vậy nên “người câu gió” cứ vô tư ngày tháng mà câu trong tự tại cái vô cầu thế gian chẳng thèm muốn. Nhưng rồi sự kỳ diệu lại xảy ra. Nếu “một ngày câu hai bàn tay trắng trở về” thì “một đời câu tóc xanh hoá thành tóc trắng”. Vẫn hai bàn tay trắng trở về chăng? Có đấy, nhận biết thực tại vô thường đã hiện diện khi tóc đời đã chuyển màu trong “lịch trình gió buốt chưa thôi”. Có điều, chuyến đời nào chẳng sóng gió, lịch trình nào chẳng gian nan, huống gì mong muốn đạt tới cảnh giới vô vi, bạn cùng trời đất, buông diều câu gió ngay giữa trần thế ta bà thì nào đâu có dễ. Thế nên cần “nhẫn nại’, cần kham nhẫn chịu đựng cái “buốt” gió thì cánh diều mới hoạt dụng cùng gió trời mà gửi lẽ huyền vi, nói lời thậm tế giữa người với gió, giữa gió với người mà cùng hòa đồng thể nhập vô khứ vô lai đến nơi bất nhị. Thế nên đổi cả thời thọ, quên cả lạc thú, mặc cho thời gian cứ trôi, “tóc xanh hoá thành tóc bạc” nhưng thi nhân và chúng ta sẽ chẳng “tay trắng trở về” đâu, một túi càn khôn đầy ắp gió đang “rỗng rễnh” reo ca cùng vô thường. Câu thơ tài hoa và đặc sắc bởi hai từ “rỗng rễnh”.

Ao ước cuộc đời và khao khát của nhân loại là nhận biết vũ trụ và nội tâm. Nhưng làm sao bắt được gió, tóm được hư không? có người từng dang tay những mong ôm trọn đất trời nhưng đâu có được. Xưa, có hai vị tiểu tăng bàn về hư không. Một vị đã thoạt tay nắm lấy hai lỗ mũi của vị kia kéo đi. Khi người kia bất ngờ bị đau đang bật kêu oai oái thì nghe vị tiểu tăng cười: “đó, hư không đang bị bắt, đang bị kéo đó”. Gió cũng vậy, lấy cánh diều mỏng và sợi dây mảnh để tìm, để câu lấy gió càn khôn. Lấy cảm nhận và quán chiếu mà thấy, mà quản gió tâm thức. Thiền gia vì thế đã kiên cường trong cuộc chiến sinh tử để thực hành phép điều thân, điều tức mà tìm, mà thấy, mà dụ dẫn, mà kiểm soát gió trong gió ngoài để hân hoan buông xả trong an vui tịnh lạc. Cái đốn ngộ xảy ra như thế, bởi các pháp là vô ngã và cuộc sống đều là những hiển thị của nhân duyên.

Sự sống nhờ vậy mà tương tục. Rồi một hơi thở ra, ta trả gió lại cho đất trời, khổ đau hay tiêu dao lại cũng do ta. Hết sinh đến diệt là vậy. Lấy cái hữu hạn để thức cảm cái vô hạn, lấy cái sắc để chỉ cái không cũng là thủ pháp diệu nghệ để tuệ ngôn cất tiếng, thi âm cất lời và để tâm vô vi biểu đạt vậy. Cả thơ và thiền cũng thế, là phương tiện cho tiếng lòng, cho quán thân và định tâm.

Câu thơ cuối thật chân thành, nỗi khắc khoải thật dễ cảm thông:

“gió vô hồi ngàn sau chưa hết 

có nhận ra ta trong hữu hạn kiếp người.”

Nếu thay “gió” bằng một nhân xưng, tựa như “em” hay “anh” thì có lẽ câu thơ sẽ thuộc về bài thơ tình nào đó, ưu sương, ướt lệ sầu bi vô vàn. Thi nhân buồn? Thi nhân tương tư? Tôi bột phát rằng:

Sầu như thể một sớm chưa thôi,

ta nhớ ta ngay phút giây này,

mắt mới nhìn đã nhuốm màu bước vội,

người kề bên mà sợ nẻo chia phôi

Nhưng câu thơ lại là câu kết cho “người câu gió” khi đã biết “gió vô hồi ngàn sau chưa hết”, cảm thương thay trong khi kiếp người là hữu hạn. Âu cũng là lời nói gan ruột thay cho cái suy tưởng chung của lớp lớp con người. Rằng, sau cái “hữu hạn kiếp người” kia thì ta sẽ về đâu, gặp được ai, gió nữa, gió hôm nay có nhận ra ta mai sau chăng? Điệp trùng câu hỏi dâng trào như thế. Nhưng gió đã sẵn có trong ta, ta đang trong trời đất cùng gió. Chỉ cần ta nhận biết là gió sẽ cất lời mà hiển diện.

Mong cho nhà thơ và cho chúng ta “câu” hết gió, thu thúc hết trần lao vào trong hồ lô “túi càn khôn kè kè bên hông”, đặng dứt hết cái nỗi nhớ niềm thương mà thi nhân trăn trở “có nhận ra ta trong hữu hạn kiếp người”. Hãy tin ngay từ cái tự sự tự vấn đó đã mang đến cái hi vọng để rồi trong cái “vô hồi ngàn sau” gió và người sẽ nhận ra nhau trong cùng tột thanh thới vô ưu.

Bình an cho nhân thế và hạnh phúc cho muôn loài.

(0) Bình luận
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Người câu gió - bài thơ đượm ánh thiền
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO