Lời chào tuổi 15
Lưu Hữu Phước đã không phụ lòng ba má. Đến tuổi học là làu làu "Tam tự kinh", "Minh tâm bửu giám". Lên 9 tuổi, Lưu Hữu Phước đã học đờn kìm của thầy Ngô Đảnh, người Phú Yên. Chỉ một tuần, Phước đã thuộc ngay 20 câu "vọng cổ" nhịp tám. Âm nhạc đã ngấm vào Phước từ thuở nằm nôi khi mẹ ru "Lý con sáo", "Bình bản", "Kim tiền", "Lý bốn mùa"… đã vực Lưu Hữu Phước lớn dậy ở tuổi thiếu niên. Cây mandolin bị hỏng của ai đó vứt đi đã được ba của Phước xin về, trở thành nhạc khí đầu tiên của cậu bé yêu âm nhạc. Cây đàn được Phước tự làm phím tre, cuốn dây đàn bằng tơ đã giúp Phước nhập vào Collège Cần Thơ với năng khiếu âm nhạc năm 12 tuổi. Ở đây, Lưu Hữu Phước bắt đầu bước từ cổ nhạc sang tân nhạc khi được ba mua cho cây mandolin thực sự.
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước Ảnh: Tư Liệu
Ở Collège Cần Thơ, thầy Phạm Văn Bạch như một luồng gió tư tưởng mới mẻ thổi giữa một vầng hào quang rực rỡ khiến những học trò như Nguyễn Việt Nam, Trần Bửu Kiến, Nguyễn Mỹ Ca, Quách Vĩnh Chương, Tạ Thanh Sơn và Lưu Hữu Phước bừng tỉnh một tinh thần dân tộc. Chưa hề đến sông Hương, xứ Huế lần nào, cậu bé 12 tuổi Lưu Hữu Phước đã liều mạng viết bài hát "Trên sông Hương" còn trước cả người đàn anh Nguyễn Văn Thương cũng với tựa đề này. Ngay sau đó vài năm, bản nhạc "Giang sơn gấm vóc" viết cho đờn kìm như một lời chào tuổi 15 của Lưu Hữu Phước.
Lên đàng
16 tuổi, Lưu Hữu Phước lên Thành đô Sài Gòn nhập Trường Lycée Pétrus Ký. Ở đó, cùng Trần Văn Khê và Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước lập ra "câu lạc bộ học sinh" với những sáng tác tươi ròng tuổi trẻ.
19 tuổi, Lưu Hữu Phước ra học đại học ở Hà Nội. Ngay trên chuyến tàu xuyên Việt, hành khúc "Ta cùng đi" đã được ông viết ra. Ở Hà Nội, ông trở thành chủ soái của phong trào "Tổng hội sinh viên" với những hành khúc yêu nước như "Bạch Đằng Giang", "Hội nghị Diên Hồng", "Tiếng gọi thanh niên", "Lên đàng" và đặc biệt là sáng tác âm nhạc cho vở nhạc kịch đầu tiên "Tục lụy" với lời thơ của Thế Lữ. Sự nghiệp âm nhạc rực rỡ của Lưu Hữu Phước đã như được thiên định thuở thiếu thời và cứ thế chiếu sáng mãi qua nhiều thập kỷ biến động của lịch sử Việt Nam.
Năm 1944, Lưu Hữu Phước bỏ học trở về Nam cùng những hành khúc mới ông vừa viết ra như "Xếp bút nghiên", "Mau về Nam", "Gieo ánh sáng", "Hờn sông Gianh". Về Sài Gòn, Lưu Hữu Phước cùng bạn bè tham gia tranh đấu, làm Báo Thanh Niên. Những hoạt động ấy đã khiến ông bị bắt vào tháng 10-1944 và bị giam mấy tháng. Ra tù, Lưu Hữu Phước vẫn không nhụt chí. Ông cùng Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ lập Nhà Xuất bản Hoàng Mai Lưu. "Lên đàng" là bản hành khúc ông viết cho phong trào "Thanh niên Tiền phong". Khi Sài Gòn khởi nghĩa, ông viết ngay "Khúc khải hoàn". Khi Nam Bộ kháng chiến, ông và Nguyễn Mỹ Ca thành lập Binh công xưởng Nam Bộ. Vừa sản xuất vũ khí, hai ông vừa sáng tác ca khúc. "Đói lạnh" và "Đoàn quân ma" được viết trong thời kỳ này. Cuối năm 1945, ông được điều ra Hà Nội. Ở thủ đô, ông vẫn mở nhà sách Hoàng Mai Lưu II ở số 8 Hàng Ngang. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Lưu Hữu Phước lên Việt Bắc, lãnh đạo "Đoàn nhạc kịch thiếu nhi kháng chiến". Vở ca kịch "Hái hoa dâng Bác" được Lưu Hữu Phước viết nhân dịp kỷ niệm 60 năm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1950) và do đoàn thiếu nhi trình diễn. Ông còn viết "Tuổi hai mươi", "Lãnh tụ ca", "Đông Nam Á châu".
Kiên trì đi theo âm nhạc truyền thống
Khi Đoàn Văn công Nhân dân trung ương thành lập, Lưu Hữu Phước được điều về làm phó đoàn cùng trưởng đoàn Nguyễn Xuân Khoát. Đấy là những ngày ông cùng ban lãnh đạo đoàn kiên trì chí hướng đi theo âm nhạc truyền thống. Vừa cùng anh em sang Berlin tham gia Đại hội Thanh niên sinh viên thế giới lần thứ hai, ông lại cùng anh em đi phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau đó, là chuyến cùng anh em sang Thượng Hải thu 30 đĩa hát dành cho ngày giải phóng thủ đô. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ những năm tháng ở đoàn văn công, đầu năm 1956, Lưu Hữu Phước chuyển sang làm Trưởng Ban Nghiên cứu nhạc vũ trong Vụ Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa. Vừa cùng anh em nghiên cứu và xuất bản cuốn "Dân ca quan họ", Lưu Hữu Phước vẫn tiếp tục tuôn chảy mạch hành khúc của mình qua các tác phẩm "Dưới cờ Đảng vẻ vang", "Cả cuộc đời về ta". Ông cùng Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ được Bộ chính trị giao nhiệm vụ viết một bài hát là bài "Mặt trận ca" dành cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. "Giải phóng miền Nam" đã ra đời trong hoàn cảnh ấy với cái tên ghép của ba người: Huỳnh Minh Liêng song do giới thiệu sai nên trở thành Huỳnh Minh Siêng. Đến khi vào miền Nam công tác, Lưu Hữu Phước có cái tên mới là Tư Siêng.
Sau "Giải phóng miền Nam", với biệt danh Long Hưng, Lưu Hữu Phước viết "Bài ca giải phóng quân", "Giờ hành động" (thơ: Thanh Hải) cùng Hoàng Hiệp (biệt danh là Lưu Nguyễn) viết "Hành khúc giải phóng".
Từ ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước trở thành Viện trưởng Viện Âm nhạc sau khi rời chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Ông cùng anh em nghiên cứu và giới thiệu đàn đá Khánh Sơn. Ngày Tết Đoan Ngọ năm Kỷ Tỵ (1989), người nhạc sĩ tài tình với nhịp hành khúc Việt Nam đã trút hơi thở cuối cùng tại Sài Gòn, để lại bao tiếc thương cho giới âm nhạc.
Tiến về Sài Gòn
Khi Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Lưu Hữu Phước lại viết ngay "Sẵn sàng chiến đấu" và "Thanh niên ba sẵn sàng". Sau đó, ông có cuộc hành phương Nam lần thứ hai rất ngoạn mục. Để vào chiến khu R ở Đông Nam Bộ, Lưu Hữu Phước đã bay từ Hà Nội sang Quảng Châu rồi từ đó bay về Phnom Penh, đi xe tới biên giới rồi đi bộ từ biên giới về chiến khu R. Ở đây, Tư Siêng đã có một bước ngoặt mới trong sáng tác với những "Cô gái Củ Chi", "Tiếng núi sông", "Xuống đường" rồi "Sài Gòn mến yêu" khi đưa vào nội thành Sài Gòn in trên tờ "Tin Văn" thì đổi tên "Thanh niên xây dựng non sông" và tên tác giả phải mượn danh nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba. Những năm tháng ở R, Lưu Hữu Phước cùng Hoàng Việt viết opéra "Bông sen" gửi ra dàn dựng ở Hà Nội vào đúng dịp kỷ niệm 8 năm thành lập mặt trận 22-12-1968. Khi Bác mất, ông viết "Tình Bác sáng đời ta" với phần lời của Diệp Minh Tuyền.
Chính ông cũng chui vào Sài Gòn để nắm tình hình. Khi đến rạp Quốc Thanh thì bất ngờ gặp bạn cũ là Nguyễn Ngu Ý. Tư Siêng đành vừa tay bắt mặt mừng vừa nhanh chóng rút lẹ ra chiến khu. Tết Mậu Thân 1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy, bao nhiêu quân giải phóng đã hát vang "Tiến về Sài Gòn" của ông.