Linh Trang và cát thiền dấu chân

TSKH. Nguyễn Thành Hưởng| 11/05/2022 15:12

Linh Trang và cát thiền dấu chân
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật vừa có bài thơ hay, nhiều cảm xúc:
LINH TRANG TRẮNG

Bông linh trang bên triền cát
duỗi dài vô tận
thảng thốt & bần thần
bỏ mặc cuộc người hun hút sau lưng
anh đếm

một hai ba
cánh linh trang thanh mảnh
viền môi trắng ngỏ cùng anh về miền đất huyền bí
cơn bão thổi khô mùa hè
dự cảm mạch ngầm
khát bỏng

hãy nở hết hoa ơi
bím tóc mảnh dẻ
nở đến kiệt cùng dòng máu thiên di
anh rong ruổi trên đường chật hẹp
người hành khách muộn trễ

một hai ba
ôi linh trang linh trang linh trang
loài hoa siêu thực
anh phác thảo từng giây
từng giây ngắn ngủi
nén lại giờ khắc gặp gỡ
tháo sợi dây buộc chặt cõi đời

linh trang
cát thiền dấu chân.
            (thơ Hoàng Vũ Thuật)

Bài thơ vừa đủ, cảm tả thọ tưởng bông hoa nơi triền cát được kết thức bằng câu thơ “cát thiền dấu chân”! Là nghệ thuật thể nhập hay chỉ dấu cho con đường của tỉnh thức? Một kết thúc cho những khởi đầu: từ thi cảm đến thi tưởng, từ thi hành đến thi thức, để rồi “bông linh trang nơi triền cát” như một hạnh ngộ “tháo sợi dây buộc chặt cõi đời”. Con đường nào rồi cũng đến thành Rome. Giọt nước nào cũng về với đại dương. Con chữ nào cũng là hiện tướng của tâm thức. Và thân phận nào chẳng thuộc về pháp giới.

Thế gian thành hình cùng muôn lối thiên di. Từng tích tắc làm trôi dạt "cuộc người", hiện tại thường bị bức tử trong kiếm tìm, nhiều khi là vô vọng, cho đến kiệt cùng. Hóa ra khi dừng lại, cái cần tìm lại ngay trước mắt ta. Kẻ cùng bần tha hương đã thấy “ngọc báu nơi chéo áo của chính mình” (Kinh Pháp Hoa). Cái hiện tại thâm diệu không dễ nắm bắt, không thể đo đếm. Tri giác được hiển bày là một phép lạ tháo bỏ vô thường mà ta vẫn nghe, vẫn đọc.  

Cuộc lữ thiên di đã được cát nhận biết. Cái lặng yên đã thấy cái chuyển dịch. Cái nhỏ bé đã chứa đựng cái vô cùng. Ngay khi nhận biết “cái như là”, sự thật đã hiển lộ. Bông trang từ rày là linh trang, bông hoa từ nay là diệu hoa, là liên hoa diệu bảo bung nở. Thiền ngộ chói ngời lúc kiệt cùng của nỗ lực tinh tấn trong niềm tin của tín căn. Và hoa kia, cũng như người, tánh linh vẫn tồn hiện trong vạn vật là vậy. Dấu chân có dịu nhẹ trên cát, đi trên cát, hay dẫm lên cát, đạp trên cát, cũng có sao. Tất cả đều không sai biệt, không hề chi khi cát đã nhận ra. Cát cũng như đất, bình đẵng trong pháp, "tâm sa như địa" (tâm của cát như đất): nhẫn nại, vô ngôn, bao dung và tận hiến.

Nơi triền cát phận người, khổ đau đã nuôi dưỡng hạnh phúc, phiền não đã dung chứa hạt bồ đề để nhân loại trân quý giá trị “cuộc người”. Vì thế, khi chợt thấy “bông linh trang bên triền cát”, người đã “thảng thốt & bần thần” với chính mình trong phút giây thực tại, để rồi “bỏ mặc cuộc người hun hút sau lưng”. Người “bỏ mặc” chứ không phải “quên” – diệu dụng là từ nhận biết và hóa nhập của tri kiến. Người vẫn đây nhưng người đã khác. Cái hoát nhiên trực ngộ đã hiển bày.

Khi vườn tâm đã rạng thì hoa tâm theo nhau khai nụ. Sau cái “thảng thốt & bần thần”, thi nhân đếm. Trong từng cái đếm, những huyền bí đã được tỏ ngỏ:

“một hai ba/ cánh linh trang thanh mảnh/ viền môi trắng ngỏ cùng anh về miền đất huyền bí”.
Đem tâm về với thân, đem cái ta về thực tại, “một hai ba”, “một hai ba”, những câu thơ đậm vị thiền hay chính là thiền trong phép quán tức hơi thở làm ta nhớ đến những câu thơ của bậc Thi tiên Bùi Giáng:

“Hỏi tên: Rằng biển xanh dâu/
Hỏi quê: Rằng mộng ban đầu đã xa/
Gọi tên là một hai ba/
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm”.

Từ phép đếm “một hai ba” chỉ cho vạn vật danh sắc vô thường sinh diệt, đến phép đếm sổ tức, là phép thiền quán hơi thở giúp một hành giả có thể quay về với bản thể chân như để nhận biết thực tại, liễu ngộ “miền đất huyền bí”, đạt đến an lạc và giải thoát.

Đây, thi nhân reo gọi, thi nhân đặt tên, thi nhân đếm, thi nhân tưởng,…và “linh trang” trở thành siêu thực. Khi “bỏ mặc cuộc người” không một phép đo, một so bì nặng nhẹ, dài ngắn, được mất, có không,…thì triền cát quê hương đã là tịnh độ. Cõi tâm tràn đầy tình thương và ngạt ngào hương nhụy. Thi nhân reo hay bạch tịnh thức reo "ôi, linh trang, linh trang, linh trang". Thực tại đã được nhận biết, không chút “nghi tâm”, không thể nghĩ bàn.

Nhưng thi nhân vẫn biết người vẫn còn nơi triền cát với “dự cảm mạch ngầm nóng bỏng”. Có lẽ thế nên thi nhân thôi thúc “hãy nở hết hoa ơi/ …nở đến kiệt cùng dòng máu thiên di”. Rồi thi nhân vội vã: “anh phác thảo từng giây/ từng giây ngắn ngủi”. Trong trường cuộc thiên di mà “anh rong ruổi trên đường chật hẹp/ người hành khách muộn trễ” đã có được nhân duyên để thấy bông linh trang nơi triền cát và thọ cảm hạnh phúc chưa từng. Thực tại trong thời khắc được tâm thức ghi nhận và phác thảo, liên tục, liên tục, “từng giây/ từng giây ngắn ngủi”. Sự tinh tấn chú tâm không ngơi nghỉ ấy là gì ngoài thiền? và ngoài thiền, làm sao “nén lại giờ khắc gặp gỡ” kia đây!

Nhưng làm sao nắm giữ được thời gian. Hiện tại nào trong dòng chảy vô tận của thời gian: Thiên niên kỷ hiện tại; thế kỷ hiện tại; thập kỷ hiên tại; kim niên hiện tại; rồi  tháng, tuần, ngày hiện tại cho dến giờ khắc hiện tại. Thảy đều chẳng còn là hiện tại. Chúng sinh mống nghĩ đã là qua. Hiện tại nào đây? một giây, một ngày hay trăm năm, ngàn năm? Sẽ chẳng có hiện tại nào trong hệ quy chiếu thời gian. Nhưng trong kiệt tận bế tắc vô vọng đó, nơi câu hỏi chính là câu trả lời, là hiện tại ôm chứa, hiện tại tỉnh thức, hiện tại của cái thấy biết như là, hiện tại của "cát thiền dấu chân". Cái giờ khắc ngàn năm, trăm năm hoặc lâu hơn thế nếu ta biết vũ trụ thành hình chỉ trong tích tắc của vụ nổ lớn (big bang) với thời gian nhỏ hơn hàng triệu l
ần một giây với kích cỡ nhỏ hơn hàng triệu lần một hạt cát được đo bằng đơn vị planck.

Phút giây đó, từ cảm thọ đến tri kiến chân thật đã “tháo sợi dây buộc chặt cõi đời” và “cuộc người” đã giải thoát.
Ngay lúc này, bông linh trang đã nở.
linh trang,
cát,
người,
đã là một.
Tất cả đã nhận ra nhau, khi “cát thiền dấu chân"!
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Linh Trang và cát thiền dấu chân
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO