Cụm từ đã đi và o tâm thức
Trên đường Điện Biên Phủ, ngay gần cửa Bảo tà ng Quân sự có một tấm biển đử hà ng chữ: Di sản văn hóa thế giới: Di tích Kử³ đà i. Không cứ gì du khách, nhiửu người dân Hà Nội đi qua đây đã rất ngỡ ngà ng với câu hửi: Tại sao không phải là Cột cử Hà Nội mà lại là Kử³ đà i? Nghe thật lạ lẫm!.
Thắc mắc của người dân xét vử mặt ngữ nghĩa và vử mặt tinh thần đửu có lý. Từ Kử³ đà i là từ Hán Việt trong đó nghĩa từng từ kử³ là cử, đà i là nhà là m cao để có thể nhìn xa. Trong sử sách, kử³ đà i là một hạng mục không thể thiếu đối với những thà nh quách ở kinh đô và cựu đô ở thời Nguyễn. Kử³ đà i Thăng Long theo sách Đại Nam nhất thống chí chép, đời vua Gia Long năm thứ tư, sai quan đốc sức việc xây đắp, trong thà nh dựng kử³ đà i.
Cũng theo sử sách, mặc dù tại Kử³ đà i Hà Nội trên đỉnh có biển đử hai chữ Kử³ đà i nhưng đã từ lâu người dân Hà Nội quen với tên gọi Cột cử Hà Nội và địa danh nà y được coi như một biểu tượng của Hà Nội... Nơi đây đã từng trải qua những phen binh lửa khi quân Pháp chiếm Hà Nội, chứng kiến sự hy sinh oanh liệt của hai quan Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoà ng Diệu, cũng như những sự kiện lịch sử hà o hùng của cách mạng Việt Nam sau nà y.
Như vậy, cả vử mặt ngữ nghĩa, lẫn tinh thần, cụm từ Cột cử Hà Nội đã thực sự gắn bó, ăn sâu và o tâm thức của mỗi người dân Thủ đô nói riêng và người Việt Nam nói chung. Còn nhớ, lúc sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết: Nhà tôi 24 Cột Cử/ Ai yêu thì ghé, hững hử thì qua.
Còn theo cuốn Đường phố Hà Nội của Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá (NXB Hà Nội, 1979), ngà y 7-5-1954, con đường chạy dưới chân Cột cử Hà Nội đã từng được gọi tên là đường Cột Cử. Sau nà y, ngà y 7-5-1954, trong không khí toà n dân tưng bừng kỷ niệm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, và o lúc 17h30, quân và dân Hà Nội đã tổ chức lễ trọng thể đổi tên đường Cột Cử là đường Điện Biên Phủ.
Cột cử Hà Nội
Dùng từ Hán - Việt tùy tiện, nên chăng?
Người viết bà i nà y không phải là nhà ngôn ngữ học nên không dám lạm bà n sâu vử câu chuyện ngôn ngữ. Chỉ biết rằng, vấn đử dùng từ Hán - Việt thế nà o cho phù hợp, để bảo tồn sự trong sáng của tiếng Việt không phải bây giử mới được nhắc đến.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi nói và viết, Người không bao giử dùng từ Hán -Việt nếu từ đó có thể thay thế bằng những từ thuần Việt. Ví dụ, Người nói hoặc viết học sinh trai,học sinh gái chứ không phải là nam học sinh, nữ học sinh, trong những năm chống Mử¹, Bác Hồ đã thay thế từ nữ dân quân bằng từ dân quân gái; phong trà o thi đua Ba đảm nhiệm bằng phong trà o thi đua Ba đảm đang...
Biển hiệu Di tích Kử³ đà iMặc dù là người thông thạo nhiửu ngoại ngữ, nhất là Hán ngữ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương cho chúng ta vử là m trong sáng tiếng Việt - trách nhiệm của mỗi người Việt Nam thực thụ. Nhiửu từ thuần Việt, khi được Người mạnh dạn thay thế đã được báo chí sử dụng theo và sau đó, các từ mới nà y đã hoà n toà n chiếm ưu thế.
Tuy nhiên, Người cũng rất am hiểu sự tinh tế, sức sống riêng của những từ Hán - Việt và kể cả những từ có nguồn gốc nước ngoà i khác trong kho tà ng ngôn ngữ Việt Nam. Chính vì thế, khi sắp đi xa, trong Di chúc, Người viết tôi để lại muôn và n tình thân yêu cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Thử nghĩ xem nếu nhi đồng được thay bằng trẻ con - là từ thuần Việt tương ứng, tương tự như Hội phụ nữ thay bằng Hội đà n bà trong những ngữ cảnh nà y là không phù hợp chút nà o.
Gần đây, trong văn phong báo chí, có tình trạng lạm dụng từ Hán - Việt quá nhiửu. Không những thế, còn lạm dụng sai. Đơn cử như từ cứu cánh, theo Hán - Việt từ điển của Đà o Duy Anh thì cứu cánh có nghĩa đúng là mục đích cuối cùng, nhưng khá nhiửu người thường hay hiểu từ nà y với nghĩa là cứu giúp hoặc cứu vãn...
Do đó, một câu hửi đặt ra ở đây là dùng từ Hán - Việt tùy tiện, nên chăng? Nhất là khi bản thân người dùng không hiểu rõ vử từ đó mà chỉ dùng như một thói quen, hoặc từ đó đã có từ thuần Việt thay thế và đang được người dân yêu thích sử dụng như ví dụ vử Kử³ đà i và Cột cử Hà Nội đã nói ở trên.