Thưa ông, năm nay giải Thà nh tựu được trao cho nhà thơ Phùng Cung, với sự nhất trí cao của hội đồng (9/9). à”ng có thể nói thêm vử Phùng Cung và giải thưởng lần nà y dưới góc độ một nhà phê bình?
Ngoà i giải chính thức, tuử³ hoà n cảnh từng năm mà hội Nhà văn Hà Nội có thể trao giải Thà nh tựu. Đây là giải tôn vinh lao động sáng tạo một đời người của những nhà văn có nhiửu tác phẩm xuất sắc, có nhiửu đóng góp cho văn học ở thủ đô và trên cả nước, có tiếng vang lớn trong dư luận. Căn cứ trao giải Thà nh tựu vẫn là tác phẩm, nhưng là tác phẩm mang tính tuyển tập, toà n tập, tổng kết một sự nghiệp văn chương. Điửu nà y đã được nói rõ trong quy chế giải thưởng.
Năm 2005, lần đầu tiên giải Thà nh tựu được trao cho tuyển tập thơ trữ tình thế giới của nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận đóng góp dịch thuật của ông. Sau đó nó đã được trao cho tập Trần Dần thơ (2008) và cho tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ (2010).
Năm nay, giải Thà nh tựu vử thơ trao cho tập Xem đêm của nhà thơ Phùng Cung được nhất trí cao. Nhà thơ Phùng Cung (1928 “ 1997) đã sống cuộc đời nhiửu trầm luân, khổ ải, nhưng chính vì thế mà thơ ông lại đưa đến sự ngạc nhiên lớn cho người đọc. Thơ Phùng Cung cho ta thấy cái tà i của ông trong việc sử dụng tiếng Việt thôn quê được nâng lên thà nh ngôn ngữ thơ, trong cái nhìn cảnh sắc đời sống nông thôn và nông dân, trong sự nén lặng và bùng nổ âm thầm của tâm tư cá nhân trong từng câu chữ. Xem đêm được xuất bản lần đầu năm 1995, năm 2012 được tái bản bổ sung, là một bằng chứng thuyết phục cho thơ đích thực và sức sống của thơ. Đó là tập thơ của cả một đời người và một nhà thơ có khi chỉ cần một tập thơ như vậy đã đủ cho cả một đời người.
Một giải thưởng mới không gây tranh cãi lúc ban đầu, có thể sẽ gây tranh cãi vử sau với những nhân vật không còn xứng tầm. Ở tư cách chủ tịch hội Nhà văn Hà Nội, ông có e ngại vấn đử nà y?
Tính cả năm nay thì hội Nhà văn Hà Nội đã bốn lần trao giải Thà nh tựu, cả bốn lần đửu được sự đồng thuận cao trong hội đồng xét giải và ban chấp hà nh, cũng như được sự đánh giá tốt của dư luận xã hội. Giải Thà nh tựu vẫn là căn cứ và o tác phẩm, vẫn lấy giá trị chất lượng của tác phẩm là m chính, cộng với sự suy xét vử số phận cuộc đời và sự nghiệp của một tác giả. Không phải cứ có tuyển tập, toà n tập là được xét giải Thà nh tựu, vậy nên giải nà y không phải là thường niên, mà tuử³ theo hoà n cảnh. Chúng tôi không e ngại vấn đử như chị nói vì chúng tôi là m việc vô tư, trong sáng, đoà n kết và đồng thuận. Chị có biết một quy định của hội đồng xét giải thưởng hội Nhà văn Hà Nội (gồm toà n bộ ban chấp hà nh hội và bốn chủ tịch các hội đồng bộ môn văn, thơ, phê bình, dịch thuật) là gì không? Là : ngồi hội đồng thì không tham gia dự giải, mình xét trao cho người khác chứ không xét trao cho mình. Nghĩa là không là m cái việc vừa đá bóng vừa thổi còi.
Không chỉ giải thưởng dà nh cho nhà thơ Phùng Cung gây bất ngử, còn một giải thưởng có thể gây tranh cãi là giải cho bản dịch cuốn Lolita của Dương Tường, một cuốn sách mà theo dư luận có những vấn đử vử dịch thuật?
Thơ Phùng Cung cho ta thấy cái tà i của ông trong việc sử dụng tiếng Việt thôn quê được nâng lên thà nh ngôn ngữ thơ. |
Lolita “ một tác phẩm thuộc hà ng nổi tiếng nhất, gây tranh cãi nhất của văn học thế giới thế kỷ 20, cũng là một tác phẩm khó dịch nhất. Dịch giả Dương Tường đã có một sự nghiệp dịch thuật to lớn, đã có nhiửu thà nh công trong lĩnh vực nà y, nhưng ông đã phải dà nh hai năm liửn cho cuốn tiểu thuyết lớn của V. Nabokov. Hội đồng nhận định bản dịch Lolita tuy còn một số chỗ gây tranh cãi vử cách dịch, cách hiểu văn bản, nhưng đây là một bản dịch trực tiếp từ tiếng Anh công phu, tâm huyết, có thể coi là tác phẩm dịch để đời của dịch giả, đưa lại cho độc giả một kiệt tác của văn chương thế giới ở mức cao nhất có thể.
Tôi phải nói thêm điửu nà y: không có bản dịch nà o là trọn vẹn tuyệt đối theo nghĩa đồng nhất với bản gốc. Có thể nói, có bao nhiêu bản dịch thì có bấy nhiêu tác phẩm của cùng một nguyên bản. Cho nên chính ông Dương Tường đã có lần đử nghị mỗi bản dịch phải được đử tên tác giả “ dịch giả song đôi, vì bản dịch đó cũng là duy nhất gắn với dịch giả đó, còn khi sang dịch giả khác thì đã là một tác phẩm khác tuy vẫn cùng một tác giả. Le Petit Prince của Antoine de Saint-Exupéry chỉ có một trong tiếng Pháp, nhưng sang tiếng Việt đã có khoảng chục bản: Cậu hoà ng con (Exupéry “ Trần Thiện Đạo, 1966), Hoà ng tử bé (Exupéry “ Bùi Giáng, 1973) “ cùng mang tên nà y còn có các bản dịch của Vĩnh Lạc (1994), Trịnh Nhất Định (2000), Nguyễn Tấn Đại (2005), Châu Diên (2007), Em bé con nhà trời (Nguyễn Thà nh Long dịch, 2000). Nhiửu người dịch đi dịch lại cuốn nà y vì họ thích tự mình dịch, vì họ không thoả mãn với những bản dịch của người khác. Độc giả có được nhiửu bản dịch như thế cà ng hay, ai hợp với lối dịch nà o thì đọc bản dịch đó. Và cà ng đọc nhiửu bản dịch của cùng một tác phẩm lại bổ sung được cho nhau, thêm được cho mình nhiửu sắc mà u ngôn ngữ tình cảm của từng người dịch in dấu trong dịch phẩm.
Bản dịch nà o cũng có những sai sót không tránh khửi, vấn đử là sai đến mức độ nà o, sai ở cách dịch hay cách hiểu. Xét tổng thể, bản dịch Lolita của Dương Tường, là đáng tin cậy. Hội Nhà văn Hà Nội trao giải cho dịch phẩm nà y căn cứ và o bản in mới nhất của Lolita, có sửa chữa của dịch giả.
à”ng có tiên liệu nà o cho giải thưởng của hội Nhà văn Việt Nam, bởi theo lịch sử, thường trùng với giải của hội Nhà văn Hà Nội một và i tác phẩm?
Một tác phẩm hay đúng mùa giải thưởng thì lẽ dĩ nhiên sẽ có cơ hội ẵm được nhiửu giải. Như trong điện ảnh thì thấy, một bộ phim được giải Oscar trước đó đã được giải Quả cầu và ng, giải Cannes, giải Venice, giải của hiệp hội nà y khác. Có sao đâu, cà ng nhiửu giải mà lại những giải uy tín, cà ng chứng tử giá trị của tác phẩm, cà ng kích thích người xem người đọc tìm đến. Giải thưởng hội Nhà văn Hà Nội theo thông lệ trao và o tháng 10 hà ng năm, trước giải của hội Nhà văn Việt Nam, nên có lợi thế đi trước, do đó có khi một tác phẩm được giải của thủ đô rồi được giải cả nước nữa thì cà ng vui chứ sao. Tuy nhiên, năm 2012 nà y theo tôi ít có cơ hội trùng lặp như vậy.