Từ năm 1965, Hà Nội cũng như các tỉnh, thành miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, xe đạp trở thành phương tiện hữu ích để bố mẹ đèo con, thồ đồ gia dụng đi sơ tán. Biết bao hình ảnh xúc động trong những năm tháng cả Hà Nội chống Mỹ; bức ảnh em bé với đôi mắt tròn xoe ngây thơ sau lưng người mẹ đang đạp xe mải miết đến nay vẫn lay động trái tim biết bao người.
Nhưng cũng từ khi thực hiện chế độ phân phối lương thực, thực phẩm, chất đốt theo sổ và tem phiếu thì xe đạp cũng phải phân phối theo tiêu chuẩn khi được bình bầu là “lao động tiên tiến”. Cả gia đình chỉ có một cái xe là oách lắm rồi. Mẹ tôi vẫn giữ được giấy đăng ký xe đạp ngày ấy. Bà bảo: “Khung xe có số khắc chìm để chống trộm cắp, vì xe đạp là cả gia tài. Cũng chỉ công nhân viên chức, cán bộ mới được phân phối xe”.
Trong ký ức tuổi thơ tôi, chiếc xe đạp Thống Nhất nam (có gióng ngang nối từ cổ phốt đến cọc yên, xe nữ không có gióng này) của cha tôi quả là tuyệt diệu. Chủ nhật, cha đèo hai mẹ con đi Bờ Hồ “bát phố”. Tháng tháng, cha chở mẹ về thăm các cụ ở quê. Cha tôi đi bộ đội, mẹ dùng cái xe đạp ấy tranh thủ đi thăm con lớn ở quê ngoại, con bé ở quê nội; thồ gạo, mỳ sợi, đường, mỡ... là những thứ ở quê rất hiếm, tiếp tế cho chị em tôi. Tôi lên lớp 7, mẹ cho dùng cái xe đạp ấy. Nhớ mãi trận Mỹ đánh phá Hà Nội mùa đông 1972, tôi nóng lòng khi nghe tin bom rơi trúng nhà A5 của khu tập thể Nhà máy dệt 8-3, vội đạp xe từ quê ra. Đến dốc đê Khuyến Lương, yên trí bóp phanh sau, tôi cho xe lao xuống dốc. Đứt phanh! Tôi cuống lên, bóp cả phanh trước. Xe quay lơ ở vệ cỏ giáp ruộng. May mà tôi không bị gãy chân, tay. Lóp ngóp lôi được xe lên thì ôi thôi, ghi đông đã bẹp một bên. Lẽo đẽo đi bộ đến gần bến đò mới có hàng sửa xe. Bác chủ hàng chỉnh lại cổ phốt, còn bên ghi đông xe đã bẹp thì chịu. Tôi mắm môi đạp xe, lựa tay lái theo cái ghi đông bẹp ấy, rồi cũng qua đò, về đến nhà gặp được mẹ, mừng ứa nước mắt. Kỷ niệm nhớ đời năm 13 tuổi.
Bên cạnh xe đạp Thống Nhất, Hà Nội thời ấy có khá nhiều xe đạp ngoại do cán bộ, sinh viên đi học ở Liên Xô và các nước Đông Âu mang về. Chúng tôi nhìn xe đạp Favorit của chị Thu học ở Tiệp Khắc mang về, đẹp như nữ hoàng, mê lắm. Bác Bích, cán bộ đi học ở Nam Ninh, Trung Quốc mang về chiếc xe Phượng Hoàng màu rêu. Chúng tôi nhìn bác đạp đi làm mà thèm. Sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, Hà Nội có thêm nhiều loại xe đạp khác nữa. Ai vào Nam, chỉ cần vác khung ra, phụ tùng có sẵn ở chợ Giời, thế là “lên” được chiếc xe mới toanh.
Rồi đến hợp tác xã cơ khí cao cấp cũng sản xuất được khung xe nhái theo mẫu mã của miền Nam. Tôi thật sự ngạc nhiên khi nhìn thấy cô bạn tôi vác cái khung xe nữ ở chợ Giời về, mặt mũi nở nang tưng bừng: “Đi lắp xe thôi”. Nói là làm, cô ấy vay tiền đi mua phụ tùng, lắp cái xe ra dáng phết. Khi phụ tùng bung ra ở chợ Giời thì ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh, cảnh dòng người rồng rắn xếp hàng mua phân phối vòng bi, nan hoa, săm, lốp... vẫn diễn ra ở ngay Bách hóa Tổng hợp. Sau gần một tiếng đứng mướt mồ hôi, tôi thoát ra khỏi dòng người, tay cầm hơn chục chiếc nan hoa, 20 viên bi của ổ giữa. Anh Quế cùng cơ quan vớ được chiếc săm vì phiếu phân phối chỉ cho phép mua săm thì thôi lốp. Tình cảnh đi xe đạp với cái lốp “cố vấn” bằng săm hỏng cắt ra buộc quanh một đoạn lốp để đỡ cho “tanh” đã rão, lốp đã mòn thật là dở khóc dở cười...
Đường phố lúc ấy có nhiều người chuyên vá xe ngồi vỉa hè, góc phố. Nỗi khó khăn của ai cũng như ai với câu đồng dao: "Một yêu anh có may ô, hai yêu anh có cá khô ăn dần", nên những gia đình cho vợ đi lao động xuất khẩu còn được người ta hài hước ví như “xe đạp Peugeot để ở Bờ Hồ không khóa”.
Tôi gắn bó với cái xe đạp nữ Hà Nội, mẹ cho tôi từ năm 1978. Đi học trong Mễ Trì, đi thực tập ở Cổ Loa, Hải Dương, Thái Bình... tôi đều mang xe theo để tiện đạp xe xuống làng xã. Năm 1996, em gái "sang tên" cho cái xe Nhật mi ni. Đến nay đã gần 30 năm, tôi vẫn đạp chiếc xe ấy đi tập thể dục, đi chợ... như một thói quen, dù bây giờ có rất nhiều loại xe đạp thể thao thời thượng.