Vương Trọng - Nhà thơ chiến sĩ đa tài

Nguyễn Thị Thiện| 21/12/2022 08:02

Thuở mới tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm, những năm tám mươi của thế kỷ trước, tôi được biết đến bài thơ “Bên mộ cụ Nguyễn Du” và rất khâm phục tác giả Vương Trọng. Sau này, đọc thêm nhiều tác phẩm của ông, tôi càng trân quý và ngưỡng mộ Vương Trọng hơn - một nhà thơ, một chiến sĩ đã có những đóng góp đáng kể vào tiến trình phát triển của nền thơ ca Việt.

nha-tho-vuong-trong(1).jpeg

Nhà “Kiều học” xứng danh “giải Nhất chi nhường cho ai”
“Truyện Kiều” là kiệt tác số một trong nền văn học Việt Nam. Vương Trọng là người đặc biệt say mê truyện Kiều. Đại thi hào Nguyễn Du luôn được ông tôn vinh là thần tượng để bản thân học và noi theo. Vương Trọng đọc Kiều bao giờ không rõ nhưng ông bảo đã thuộc lòng “Truyện Kiều” từ câu đầu đến câu cuối từ năm học lớp 6. Say mê và dày công nghiên cứu Kiều nên ông đã từng có nhiều bài viết công phu, hấp dẫn về “Truyện Kiều”. Ông có thể chọn ra ngay và luôn rất đúng những câu Kiều hay nhất, hợp với hoàn cảnh. Ai hỏi câu nào ông trả lời ngay được câu đó, hỏi đoạn nào ông đọc ngay được đoạn đó. Bởi yêu mê say đến mức sùng bái Kiều, ông đã đặt cho con trai của mình tên gọi Vương Liêu Dương (Liêu Dương là quê Kim Trọng). Cũng bởi thấu cảm sâu sắc với bậc tiền bối, năm 1982 ông sáng tác bài thơ “Bên mộ cụ Nguyễn Du” bày tỏ nỗi lòng buồn thương, bi phẫn của kẻ hậu sinh trước cảnh cô liêu, hoang lạnh của ngôi mộ:“Tưởng là phận bạc Đạm Tiên/ Ngờ đâu Cụ Nguyễn Tiên Điền năm đây?”. Đến năm 1989, mộ Nguyễn Du đã được nâng cấp khang trang. Có người khẳng định rằng nhờ có bài thơ trên của Vương Trọng nên thời gian tu sửa và xây dựng mộ Nguyễn Du to đẹp đã được rút ngắn lại. Ngoài bài thơ trứ danh này, Vương Trọng còn có những bài khác cùng chủ đề như: “Ghi trong Nhà Bảo tàng Nguyễn Du”, “Đạm Tiên”, “Mô-tip Thúy Vân”, “Phác thảo Tiên Điền”.


Không chỉ say mê Kiều, Vương Trọng còn rất yêu thích thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đây là lý do khiến ông âm thầm, mê mải làm công việc cần đến rất nhiều tâm, tài và lực: Viết nhiều cuốn sách, dịch toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhiều bài sang thơ lục bát - thể thơ được coi là quốc thi ở Việt Nam. Công việc này nhà thơ làm hàng chục năm trời chính bởi tình yêu sâu sắc và sự ngưỡng kính với bậc tiền bối.

Chủ nhân của nhiều câu đối và bài thơ trào lộng thú vị, giàu suy tư

Ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, Vương Trọng nổi tiếng hóm hỉnh, có trí nhớ tuyệt vời và biệt tài trào lộng. Ông thường được bạn văn gọi một cách thân thiện, trân quý là Đồ Nghệ. Con người ông toát ra phong thái nho nhã, dáng thư sinh, mái tóc bồng bềnh lúc nào cũng hất ngược về phía sau để lộ vầng trán rộng thông minh. Gương mặt luôn tươi tắn, hồng hào toát lên vẻ tự tin. Kiến văn sâu rộng, tài làm câu đối rất chuẩn chỉnh và khả năng ứng tác thơ nhanh nhạy đã mang lại sự khâm phục cùng nhiều tiếng cười sảng khoái tới các bạn văn cùng những người ở quanh ông.


Nhà thơ Đoàn Tuấn trong bài “Khẩu khí trào lộng của Đồ Nghệ Vương Trọng” đã chia sẻ: “Có lần Vương Trọng đang xúc cơm cho con ăn. Con trai hiếu động cứ chạy lung tung khiến ông phải chạy theo dỗ cho ăn. Cậu bé nấp sau cửa hoặc góc khuất, thi thoảng hai bố con lại vang lên những chuỗi cười giòn giã. Nhà thơ Thanh Tịnh đi ngang, đọc ngay vế đối: “Bố cho con ăn, con cười bố cười“. Rất nhanh trí, Vương Trọng đối lại ngay là: “Con cho bố ăn, con khóc bố khóc“. Thanh Tịnh rất bất ngờ và cảm phục vế đối rất xuất sắc. Một lần khác: Cơm đã bày ra mà thằng cu bé vẫn còn ư ử mè nheo đòi ăn mì tôm, Đồ Nghệ cáu sườn: “Có cơm, có cá, có canh cua/ Mày muốn moi mỳ mẹ mới mua/ Bố buồn bực bảo: bây bài bướng/ Đáng đánh đòn đau, đếch đánh đùa!”. Nghe bố quát bằng thơ, anh cu vội im thin thít“.

tho-vuong-trong.jpg


Vương Trọng không chỉ có khiếu làm thơ hài hước, còn có tài chơi chữ đáng nể. Làm ở tạp chí Văn nghệ Quân đội gần cả cuộc đời, ông hiểu rõ tính cách, năng lực và tác phẩm của các bạn văn, người là sếp, người là bậc cây cao bóng cả nên có lần ông sắp xếp quan hệ trên dưới các nhà văn quân đội là Dũng Hà, Hồ Phương, Xuân Thiều, Nguyễn Trọng Oánh, Hữu Mai, Nguyên Ngọc thành một cặp câu đối hết sức thú vị: “Dưới ánh Sao mai, Khúc sông nghe lời Biển gọi/ Trên nền Đất trắng, Vùng trời ngán cảnh Rẻo cao”. Chính tài ứng đối nhanh và hóm hỉnh trào lộng nhưng giàu suy tư trong con người và thơ Vương Trọng truyền năng lượng cho mọi người qua tiếng cười lạc quan, thêm động lực trong cuộc sống.

Hồn thơ nặng tình với quê hương và con người

Vương Trọng làm thơ ở nhiều đề tài, bao giờ viết về quê hương cũng da diết ân tình sâu nặng với miền quê nghèo khó cùng những kỷ niệm đau đáu của tuổi thơ. Có năng khiếu thơ từ sớm nên mới học lớp 4, Vương Trọng đã làm bài thơ đầu tiên nói lên cảm xúc của mình với nơi chôn nhau cắt rốn. Bài thơ có cái tên rất cổ “Vịnh khe Bò Đái”, tuy gửi đi không được đăng báo nhưng là một kỷ niệm khó quên. Sau này, trong bài thơ “Lời dặn” (viết năm 1989), Vương Trọng bày tỏ mong ước thiết tha nơi trở về của mình: “Thi hài tôi sẽ trở về với làng/ Trên sức lực bạn bè, xóm mạc/ Những bàn tay lam nham cua cắp/ Những bàn chân tập tễnh bước gai đâm/ Núi Quỳ Sơn sẵn dành chỗ tôi nằm/ Hoa ấm lửa, đất nồng hơi than cháy/ Hạnh phúc lắm được nằm xuống đấy/ Dù gió mưa, không biết lạnh bao giờ…”. Điều đáng nói là, dù viết về tình đất hay tình người, thơ Vương Trọng đều có cốt lõi chung là nỗi lòng sâu đằm của riêng ông, không lẫn với bất cứ nhà thơ nào khác.


Tôi cũng như nhiều người khác đều xúc động khi đọc những bài thơ Vương Trọng viết về tình cảm gia đình. Bài “Khóc giữa chiêm bao” nhà thơ kể đã nhiều lần gặp mẹ trong mơ, lần nào cũng khóc. Đoạn thơ sau trong bài đã chạm tới trái tim của người đọc bởi sự chân thật đầy ám ảnh: “Anh em con chịu đói suốt ngày tròn/ Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa/ Có gì nấu đâu mà nhóm lửa/ Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về”. Hình ảnh mấy người con đói rã suốt ngày, trời tối vẫn còn “ngồi co ro bậu cửa” đợi mẹ về để có bữa tối là “ngô hay khoai” khiến lòng ta thổn thức... Bài thơ làm sống dậy chân dung người mẹ nghèo tần tảo, vất vả hi sinh vì đàn con và gia đình với tình yêu thương và lòng biết ơn vô hạn. Đó cũng là hình ảnh rất tiêu biểu của bao mẹ Việt Nam khác.


Hay trong bài thơ “Chị dâu” với 38 câu thơ lục bát nhuần nhị, tác giả đã thể hiện tấm chân tình của mình với người chị dâu đảm đang, thương yêu lo toan cho các em chồng chẳng khác gì người mẹ chăm lo cho các con: “Nghĩ mà thương lắm chị dâu/ Chiều mưa, gạo hết, mẹ đau cuối giường/ Em ngồi đôi mắt nhòa sương/ Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi/ Chiều ơi mưa mãi làm gì/ Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về!...”. Bao nhiêu xót đau và thương cảm và biết ơn chị dâu gửi gắm qua những vần thơ được chưng cất từ gan ruột như thế?


Hồn thơ Vương Trọng luôn rộng mở. Trân trọng và biết ơn những người chiến sĩ ông viết bài thơ “Đường về Phum” nói về những cô thanh niên xung phong quên mình xả thân hi sinh vì nước khi tuổi còn rất trẻ. Trong bài “Lời thỉnh cầu ở Nghĩa trang Đồng Lộc” ra đời năm 1995, nhà thơ đã hóa thân vào linh hồn mười liệt nữ để thỉnh cầu: “Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang/ Cho mọc dậy vài cây bồ kết/ Hương chia đều trong hư ảo khói nhang”. Lời thỉnh cầu thiết tha gắn với thói quen gội đầu bằng bồ kết của những cô gái ngã xuống vì nghĩa lớn đã được những người còn sống thực hiện với lòng cảm phục và biết ơn sâu sắc.


Điều đáng quý khác nữa ở Vương Trọng là thơ ông luôn đồng cảm, bênh vực những phận người kém may mắn. Bài “Với đứa con ngoài giá thú” là một minh chứng, ở đó nhà thơ bênh vực người mẹ và em bé như ông Bụt với cô Tấm trong truyện cổ tích qua lời thơ: “Mặc người đời gọi con ngoài giá thú/ Con vẫn trong tình mẹ vuông tròn”. Chứng kiến trong cuộc sống ngày nay rất nhiều cặp vợ chồng ly hôn, ông viết bài thơ “Hai chị em” năm 1985, bày tỏ lòng thương cảm những đứa trẻ bơ vơ trong cảnh ngộ bố mẹ ra tòa ly hôn. Lời thơ ở đây như những tiếng nấc nghẹn ngào: “Nó biết đâu bố mẹ nó ra tòa/ Là cầm cưa xẻ ngang tình đoàn tụ/ Đứa còn mẹ thì thôi, không còn bố/ Hai chị em rồi sẽ mất nhau…”. Thơ Vương Trọng không chỉ là tiếng nói của cảm xúc, còn là những suy tư triết lý về cuộc sống con người. Bài thơ còn gióng lên hồi chuông cảnh báo những ông bố, bà mẹ trước khi đặt bút ký đơn li hôn “Phút giây thôi, hãy nghe tiếng con mình!”. Không chỉ gia đình mà toàn xã hội hãy quan tâm đến con trẻ vì đó là tương lai của đất nước chúng ta.


Tuy đến nay đã tròn tuổi bát thập nhưng nhà thơ Vương Trọng vẫn còn sáng tác. Bạn đọc mãi trân quý và ghi nhận những đóng góp của nhà thơ Vương Trọng với nền văn học nước nhà.

Nhà thơ Vương Trọng sinh năm 1943 tại Đô Lương, Nghệ An - một vùng đất địa linh giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Là con một cụ đồ Nho, các anh trai ông cũng đều yêu thơ, hay đọc thơ nên đã truyền đến cho Vương Trọng tình yêu thơ rất sớm. Thuở nhỏ, Vương Trọng học giỏi toàn diện. Sau khi tốt nghiệp khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (năm 1965), Vương Trọng lên đường nhập ngũ. Kết thúc thời gian huấn luyện, ông về công tác tại Cục 2, Bộ Tổng tham mưu. Năm 1970, Vương Trọng được điều chuyển làm giáo viên, giảng dạy tại Trường Văn hóa Bộ Quốc phòng. Ở đó, ông được chọn đi học lớp Bồi dưỡng sáng tác của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1974, ông làm việc tại tạp chí Văn nghệ Quân đội đến năm 2007 về hưu với quân hàm Đại tá.
Nửa thế kỷ sáng tác ông đã cho ra mắt bạn đọc gần 30 đầu sách, trong đó có 16 tập thơ và trường ca, ngoài ra là các tập truyện ngắn, bút ký, sách dịch. Vương Trọng đã 2 lần được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam; 5 lần được Giải thưởng Bộ Quốc phòng và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • “10h sáng Chủ Nhật”: Chan chứa tình yêu thương con người, sự tử tế
    Sáng 11/9 tại Hà Nội, lễ ra mắt cuốn sách “10h sáng Chủ Nhật” của nhà báo Tô Phán – Chủ tịch Hội Nhà báo Hà Nội, Tổng Biên tập Tạp chí Công dân & Khuyến học diễn ra trang trọng, ấm cúng. Theo đánh giá của nhà báo Hồ Quang Lợi - Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam; nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam: “10h sáng Chủ Nhật của nhà báo Tô Phán đã hướng bạn đọc đến sự tử tế, tình yêu thương con người”.
  • Ra mắt sách “Thơ Hoàng đế Thiệu Trị – Đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ”
    Sau nhiều năm nghiên cứu, tác giả Nguyễn Phước Hải Trung cho ra mắt tác phẩm “Thơ Hoàng đế Thiệu Trị – Đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ” tại Không gian Sách và Văn hóa Huế (23 – 25 Lê Lợi, TP Huế).
  • Nhớ người thơ tài hoa của Sơn Tây
    Có thể khẳng định, sau Quang Dũng với thi phẩm bất hủ “Đôi mắt người Sơn Tây” thì một trong những người viết nhiều và hay nhất về mảnh đất này chính là nhà thơ Doãn Trang. Ông là một thi sĩ, một nghệ sĩ đích thực, người luôn dành cho Sơn Tây một tình yêu sâu nặng.
  • Nhà văn Đoàn Tuấn tái hiện chiến trường K qua những hồi ức về đồng đội
    “Những ngọn khói bên đường” - tuyển tập bút ký về chiến trường K của nhà văn, người lính Đoàn Tuấn mang đến những lát cắt về cuộc đời người lính tình nguyện Việt Nam từng chiến đấu tại mặt trận biên giới Tây Nam, trong thời chiến và hậu chiến.
  • Thêm một công trình chuyên khảo về Cách mạng Tháng Tám
    Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ra mắt cuốn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam: Khi toàn dân tộc quyết “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” do GS.TS. Phạm Hồng Tung biên soạn. Đây là công trình chuyên khảo công phu, dựa trên phương pháp luận sử học hiện đại, tiếp cận liên ngành, khai thác nhiều nguồn tư liệu trong và ngoài nước.
  • “Chuyện ba người lính”: Ký ức chiến tranh từ góc nhìn của người cựu chiến binh
    Ra mắt bạn đọc tháng 8/2025, tiểu thuyết “Chuyện ba người lính” của tác giả Vũ Công Chiến do NXB Trẻ phát hành là cuốn sách mới nhất trong hành trình cầm bút của một cựu chiến binh gắn bó với văn chương. Nếu trong tiểu thuyết tự truyện “Hồi ức lính”, Vũ Công Chiến ghi lại trải nghiệm cá nhân của mình thì ở “Chuyện ba người lính” người kể chuyện đứng ở vị thế của một nhân chứng, tái hiện số phận của những đồng đội đã cùng ông đi qua chiến tranh.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI sẽ diễn ra tại Khánh Hòa
    Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Kế hoạch số 4625/KH-BVHTTDL về việc tổ chức Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI tại tỉnh Khánh Hòa. Sự kiện sẽ diễn ra từ 17 đến 19/10/2025 với sự tham gia của 6 tỉnh, thành phố gồm Khánh Hòa, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, An Giang và TP. Hồ Chí Minh.
  • Triển lãm “Việt Nam qua ống kính nhiếp ảnh gia Quốc tế”
    Hàng trăm tác phẩm đẹp về đất nước con người Việt Nam của các nhiếp ảnh gia trong nước và quốc tế được trưng bày triển lãm tại “Festival Nhiếp ảnh quốc tế Việt Nam”.
  • Tạo lập không gian văn hóa đặc sắc cho Thủ đô
    Với vị trí “trái tim” của Thủ đô, khu vực như Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục bên hồ Gươm được Thành phố Hà Nội thực hiện chỉnh trang, vừa gìn giữ các không gian văn hóa, vừa nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của nhân dân. Trong đó, khu vực Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục (phường Hoàn Kiếm) vừa cơ bản hoàn thành phân kỳ 1 việc chỉnh trang, giúp không gian tại khu vực hồ Hoàn Kiếm trở nên khang trang và tươi đẹp hơn.
  • Tháo “nút thắt” vốn cho doanh nghiệp ngành xây lắp
    Thị trường xây dựng đang khởi sắc mạnh mẽ là cơ hội để các doanh nghiệp xây lắp chuyển mình. Tuy nhiên, nguồn vốn vẫn là “nút thắt” của các doanh nghiệp khi đặc thù ngành xây dựng là thi công dàn trải, kéo dài, thanh toán theo tiến độ và chi phí đầu vào có thể biến động tăng.
  • Lãng đãng hồ Tây
    Mãi rồi mà vẫn cứ với tâm trạng chộn rộn y như là một nghi lễ. Mỗi sáng tinh mơ, khi hồi hộp vén màn sương mỏng đánh thức Hồ Tây. Nhoài người với tay nắm xe đạp, nhập dòng xe đua như dòng nước xiết òa vào vùng thơm hương sen hồ và những làng hoa Quảng An, Quảng Bá...
Đừng bỏ lỡ
Vương Trọng - Nhà thơ chiến sĩ đa tài
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO