“Ngày chưa sương vội” - một cách tân thơ táo bạo của Trần Việt Hoàng
Cuối năm 2024, Trần Việt Hoàng gây bất ngờ khi cho ra mắt tập thơ “Ngày chưa sương vội” sau nhiều năm “thử nghiệm” thi ca trên các tờ báo, tạp chí văn nghệ uy tín. Với những nỗ lực, tình yêu văn chương và sức sáng tạo dồi dào của người cầm bút; những đánh giá cao từ giới chuyên môn; sự tiếp nhận đầy nhiệt tình của độc giả, có thể xem “Ngày chưa sương vội” là minh chứng cho một cách tân thơ táo bạo, mới mẻ, giàu giá trị của Trần Việt Hoàng.
Ngổn ngang biểu tượng
Một trong những tín hiệu nghệ thuật chứng tỏ sự đột phá trong tư duy và sự cách tân trong lối viết của Trần Việt Hoàng là thế giới biểu tượng. Điều này đặc biệt rõ trong “Ngày chưa sương vội”. 53 bài thơ trong “Ngày chưa sương vội” được chia thành bốn phần: “gầy rạc thác lên ánh trăng”, “tự họa”, “chứng nhân cho nhiều trắc ẩn”, “còn cỏ sắc thì thầm”. Trong đó, các biểu tượng như cánh đồng, núi đồi, sương, làng, áo lính... trở đi trở lại như một sự vận động nhịp nhàng của tiềm thức, kết tinh trong lớp vỏ ngôn từ.

Núi trong thơ Trần Việt Hoàng không chỉ là một nét vẽ của thiên nhiên trác tuyệt mà còn gắn liền với thời gian: “núi cuối cùng còn một chú ngựa phi/ những đơn độc ngày mai không tuổi” (Núi cuối mùa); “ngọn núi già hiện ra trước mặt/ cánh mỏng rơi đầy/ chim đã bay về đâu” (Đêm); với cảm thức con người “núi đồi chơi vơi/ lòng người đổ ải vào thăm thẳm bóng tối/ chạm vào sự sống/ ký ức khôn nguôi” (Tiếng của ngôi làng)... Núi vừa hùng vĩ vừa cô đơn, trở thành ám dụ cho ý niệm “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Núi trong thơ Trần Việt Hoàng còn song hành với hình ảnh người mẹ: “mẹ nghĩ về núi đồi/ cúc trắng trước gió/ ngọn đèn loang ánh sáng vào tranh/ tóc rối quên ngày heo may/ trước gương này không son phấn/ mặt mẹ bình dị như nắng cũ” (Trước thu). Núi cũng gắn liền với ký ức mất mát về cha: “núi ngày pá ra đi/ dải đất còn bước chân lầm lụi/ pá giữ núi một đời” (Pá có về).
Bao trùm suốt “Ngày chưa sương vội” là biểu tượng sương. Như tác giả tự sự: “lòng ta như sương mai/ gom nhặt sắc xanh từ cỏ” (Hồi sinh), thơ Trần Việt Hoàng vang vọng giai điệu trong trẻo, tinh khôi, để lại những dư ba về tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, người lính... Ở đó, biểu tượng sương thoát thai từ những quan sát và cảm nghiệm của tác giả về thế giới xung quanh và đời người. Sương như tín hiệu gọi thức tình yêu quê hương, níu kéo chủ thể trữ tình quay về với cội nguồn, ký ức. Trong thơ Trần Việt Hoàng, khuy áo là “khuy sương” (Thu khác); sâu thẳm lòng người là “lòng sương trống rỗng”, “lòng ta như sương mai”; giọng nói của cô gái Mường “nhẹ như sương”; đôi mắt người “hun hút sương trời”... Sương cũng là “chứng nhân cho nhiều trắc ẩn” trong cuộc đời con người, vô tình trở thành “thước đo” của cảm xúc, tình yêu và sự sống.
Bên cạnh núi, sương, “Ngày chưa sương vội” còn tập hợp nhiều biểu tượng có giá trị khác mà phần nhiều là những biểu tượng tự nhiên. Đó là cánh đồng - biểu tượng của quê hương, tấm gương phản chiếu quãng đời cơ cực long đong của mẹ và bao người phụ nữ khác: “chớp lấy khuôn mặt cuối năm/ những giọt nước mắt rơi xuống cánh đồng/ ngày mai mầm mới mọc lên” (Khuôn mặt cánh đồng), “sông vương mảnh khói chiều/ lời tự bạch cánh đồng ruỗng mục mái rạ” (Gương mặt ký ức)...; là biểu tượng sông - nguồn gắn liền với cuộc sống và nếp nghĩ của dân tộc Việt: “thương con đò mắc cạn/ chưa xuôi khỏi thượng nguồn” (Thượng nguồn), “đêm xa tái hiện dòng sông trắng bạc/ trăng xa sông vẫn còn lênh láng/ dưới bóng cầu thuyền chèo đâu vội vã/ sông lặng đi tưởng không còn dậy sóng” (Thăm lại)...
Đáng chú ý là hình ảnh người lính - biểu tượng mà Trần Việt Hoàng xây dựng với tất cả nhiệt huyết, bởi chính anh cũng là một người lính. Người lính trong thơ Trần Việt Hoàng được đặc tả trong các miền không gian, thời gian khác nhau như thao trường: “đêm không một ngọn lửa/ dấu đạn bắn diễn tập ngày qua còn cày ấm đất nâu/ người chiến sĩ chắc tay bồng súng/ ý nghĩ bay về phía bình minh” (Đêm thao trường); như doanh trại và bức chân dung tự họa của tác giả: “quân phục tân binh mùi đất vẫn còn/ bịn rịn nếp gấp/ cha thăm tôi ngày còn chưa chín nửa/ bức hình chưa khô giọt nước mắt rơi thầm” (Ngày tưởng tượng); như ruộng bậc thang miền núi cao Tây Bắc: “ngô nghiêng mình ngả màu lên áo lính/ ruộng bậc thang nhìn dấu chân người về/ con đường lau lách mờ sương” (Điểm tựa)... Nhưng tất cả đều được bao trùm trong không gian Tổ quốc lớn lao, kỳ vĩ. Biểu tượng người lính vì thế trở nên tầm vóc lớn lao hơn, góp phần nâng tầm tiếng thơ của Trần Việt Hoàng.
Những mạch nguồn cảm xúc
Cảm xúc là “sợi dây” nối kết thơ ca với độc giả. Trong “Ngày chưa sương vội”, Trần Việt Hoàng đã thổi vào những mạch cảm xúc đa dạng: tình yêu gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu người chiến sĩ.
Tuổi thơ trải qua nhiều khó khăn, thiếu thốn (mất bố từ khi lên 3, mẹ vất vả nuôi mấy anh em ăn học), trong con người Trần Việt Hoàng hẳn mang một tình yêu gia đình sâu sắc. Thơ anh luôn có bóng dáng người mẹ tảo tần: “ô cửa bên mưa/ mắt mẹ sâu nhiều ý nghĩ/ phố đã thu rồi/ người lao công/ không nỡ quét đi ngàn lá dưới chân mình” (Trước thu); “ngực cây ấm vườn nhà/ tiếng chiều gọi dậy những bỏ quên/ nhìn mẹ nỗi mắt biếc xanh” (Tháng Tư). Và cả hình ảnh người ba vẫn luôn chập chờn trong ký ức: “nghĩ về cha mồ hôi thêm trở mặn” (Tháng Tư), “cha vẫn tìm ta trên con đường cỏ dại/ nhọn gai ký ức nhạy sắc/ con sông trước nhà ăm ắp điệu ví/ vải vóc lựa chiều xa” (Hồi sinh). Ngay cả trong vô thức tưởng tượng của người lính trẻ cũng có hình ảnh của người ba hiện về mang theo hơi ấm yêu thương: “bồi hồi nghe tiếng cha khẽ gọi/ hàng ngũ chỉnh tề tôi lặng lẽ thôi nghiêm” (Ngày tưởng tượng). Đó cũng là những khát khao dung dị nhưng vô cùng xúc động.
Tình yêu quê hương, đất nước đã chi phối ngòi bút của Trần Việt Hoàng, trở thành cảm hứng nhân văn trong sáng tác của anh. Diện mạo quê hương trong thơ Trần Việt Hoàng hiện lên hiền hòa, dung dị, đằm thắm. Tác giả đã góp nhặt từ những hình ảnh, chi tiết nhỏ nhặt nhất như “kiếp bù nhìn”, “lũ vạc xám” (Khuôn mặt cánh đồng); “những đường cày ngay ngắn”, “vết chân trâu” (Tìm lại những đường cày); “chái bếp của mẹ”, “mái rạ hao gầy”, “tiếng gà gầy cựa thức” (Những giọt sương rơi)... cho đến núi đồi hùng vĩ, sông dài, trời rộng mênh mông để dựng lên bức tranh quê hương bằng một tình yêu và nỗi nhớ nồng nàn, da diết. Bên cạnh đó, những miền đất nơi tác giả đi qua như vùng núi phía Bắc hùng vĩ giàu truyền thống văn hóa; xứ Huế nhiều trầm tích ẩn sâu; Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến... đều in sâu vào tâm khảm của nhà thơ, trở thành những kỷ niệm thân thương với đất nước và con người những miền đất lạ.
Với màu áo xanh người lính, Trần Việt Hoàng nhìn bằng sự cảm phục, trân trọng và biết ơn. Thơ về người lính của anh không hào sảng, hùng hồn như thơ của nhiều cây bút khác khi viết về đề tài này, cũng không nặng yếu tố lịch sử, chính trị mà giản dị, chân thành, phản ánh những trải nghiệm trong môi trường quân ngũ. Người lính trong thơ anh vừa là bức chân dung tự họa, vừa là hình ảnh người lính thời đại mới mang lòng biết ơn người lính thời kỳ trước và những khát vọng cao đẹp hướng đến tương lai: “đàn chim bay để bóng mãi lưng trời/ chân đồi sen trắng rơi cánh mỏng vào sương/ lô cốt lặng im không tẻ nhạt/ ngực trẻ dưới nắng dậy tâm tư” (Viết ở Trung đoàn 165); “quân phục tân binh mùi đất vẫn còn/ bịn rịn nếp gấp/ cha thăm tôi ngày còn chưa chín nửa/ bức hình chưa khô giọt nước mắt rơi thầm” (Ngày tưởng tượng)...
Có thể nói, thơ Trần Việt Hoàng là một giọng thơ cách tân táo bạo, độc đáo, một tín hiệu mới, một làn gió mới cho thi ca đương đại. Ngoài những biểu tượng sáng tạo, những nguồn cảm xúc đa dạng, yếu tố “lạ hóa” trong ngôn từ, lối vắt dòng tưởng ngẫu nhiên nhưng đầy ẩn ý, giọng điệu biến hóa... cũng là những dấu hiệu của sự cách tân trong thơ Trần Việt Hoàng. Mới xuất hiện vài năm và vừa ra mắt Ngày chưa sương vội, Trần Việt Hoàng hứa hẹn sẽ còn tiến xa trên con đường văn chương./.