Thơ lục bát xứng đáng được đặt ở vị trí “Quốc thi”

Bằng Việt| 26/06/2022 18:07

Thơ lục bát  xứng đáng  được đặt  ở vị trí  “Quốc thi”
Làm thơ lục bát tài hoa phải đến đỉnh cao bậc “thi thánh”, ai ai cũng phải tâm phục khẩu phục, thì chỉ mới có cụ Nguyễn Du.
Thơ lục bát  xứng đáng  được đặt  ở vị trí  “Quốc thi”
Lục bát bước vào thế kỷ XX như vậy là đã trở nên một thể thơ hoàn chỉnh và có vị thế ổn định trong thơ Việt. Những cách tân trong thơ lục bát thế kỷ XX và sang cả thế kỷ XXI là không nhiều. Về nội dung, thì tất nhiên nó phải chứa đựng thêm nhiều nội dung của thời đại mới, tương ứng, với cách nghĩ và cách nói mới, phù hợp với các trào lưu của thời đại, kể cả các biến đổi cách mạng trong xã hội. Những nhà thơ tên tuổi đã đem lại nhiều thành tựu trong thơ lục bát thế kỷ XX, phải kể đến sau Tản Đà là Á Nam Trần Tuấn Khải. Tiếp đó là “thời kỳ vàng son” của lục bát qua các nhà thơ Thế Lữ, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư... và đặc biệt là Nguyễn Bính với chất “chân quê” đặc sệt của ông đã làm nên cái hồn lục bát duyên dáng và độc đáo gần như vô địch trong thơ Việt Nam cận - hiện đại, mà ai cũng dễ thuộc:
Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn giập miếng giầu, em sang,
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ, vội vàng chi anh,
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình... với nhau
Ai làm cả gió, đắt cau,
Mấy hôm sương muối 
cho trầu đổ non!. 

(Hẹn)
Cái “tôi trữ tình” trong thơ lục bát của các nhà thơ thế kỷ XX thực sự đã được nâng lên rõ rệt, ở tầm cao và tầm sâu hơn nhiều so với các thế kỷ trước, lại còn cộng thêm cả “cái tôi tuyệt đối”- khi chịu ảnh hưởng khá rõ của chủ nghĩa cá nhân, khi trí tuệ tự do và cảm xúc cá nhân đã được giải phóng trong sáng tác của các nhà thơ phương Tây sau trào lưu của các cuộc cách mạng tư sản thành công. Tính tâm sự, nhằm để bộc bạch, giãi bày, chia sẻ..., đã thoát khỏi mọi ước lệ và cung bậc nặng nề của thơ cổ điển, được nâng lên tới mức chân thực và giàu biểu cảm nhất, từ mọi khía cạnh phong phú của niềm vui và nỗi buồn con người, đã được các nhà thơ thế kỷ XX thể hiện một cách phóng khoáng và nhuần nhụy. 
Lục bát cũng có được một phần rõ nét trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ đó. Hãy thử cảm nhận các yếu tố cá nhân rất riêng tư, rất mong manh - kiểu ta vẫn hay gọi một thời là “tiểu tư sản” - trong tình yêu và cảm nhận đôi lứa, đã được nhà thơ Huy Cận khéo léo kết hợp như thế nào, cùng các yếu tố Đông và Tây, cổ và kim, trong một bài thơ tình khá điển hình, bài “Ngậm ngùi”: 
Nắng chia nửa bãi... Chiều rồi,
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu,
Sợi buồn, con nhện giăng mau,
Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây!
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em. Mộng bình thường,
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ,
Cây dài, bóng xế ngẩn ngơ,
Hồn anh đã chín mấy mùa thương đau,
Tay anh, em hãy tựa đầu, 
Để em nghe nặng trái sầu rụng rơi! 
Rồi tiếp đó, các nhà thơ ở lớp trẻ hơn, sau cách mạng 1945 và nhất là qua  cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dài dặc hơn 20 năm, vẫn tiếp nối được truyền thống của lục bát, vững vàng mà uyển chuyển, hiện thực và mơ ước bay bổng, lại còn có thêm những nét mới, khỏe khoắn và mạnh mẽ hơn, nhưng vẫn có các yếu tố thực và ảo, mới và cũ, xa và gần, tôi và chúng ta... đan xen, trong thời kỳ sau này, như lục bát của các nhà thơ: Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Nguyễn Trọng Tạo... Trong hoàn cảnh những năm được yêu cầu làm nhiều thơ tuyên truyền, cổ vũ mạnh mẽ hơn cho cuộc chiến đấu, hoặc con người mới, cuộc sống mới..., cũng khá là bất ngờ khi nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo dám “cho ra lò” một bài thơ thể hiện rõ chất nghệ sĩ tung hứng trong cái tôi cá nhân phóng túng, một khía cạnh không phải lúc nào cũng được hoan nghênh, nhất là ở thời điểm đó. Tuy nhiên, bài thơ đã được phổ nhạc và phổ cập, bài “Chia”:
Chia cho em một đời tôi,
Một cay đắng, một niềm vui, một buồn,
Tôi còn cái xác không hồn,
Cái chai không rượu, tôi còn vỏ chai!
Chia cho em một đời say,
Một cây si với một cây bồ đề,
Tôi còn đâu nữa đam mê,
Trời chang chang nắng, tôi về héo khô,
Chia cho em một đời thơ,
Một lênh đênh, một dại khờ, một tôi.
Chỉ còn cỏ mọc bên trời,
Một bông hoa nhỏ, lặng rơi mưa dầm!

 ...Về hình thức, thơ lục bát luôn vẫn giữ được tính ổn định cao. Tuy nhiên, có một số tìm tòi nỗ lực làm mới lục bát, cũng đáng được ghi nhận, đó là  đưa thơ lục bát đến gần với thơ “leo thang” như kiểu Mayakovsk của Nga, tức là mỗi dòng không nhất thiết có 6 rồi đến 8 câu như thông thường, mà tùy ý ngắt nó ra, có khi 2-3 chữ, hoặc 3-4 chữ một dòng, theo một tiết tấu nhất định. Nhà thơ hải ngoại là Du Tử Lê còn đưa lối viết “hậu hiện đại” vào lục bát, theo kiểu “leo thang” như vậy, và cũng được nhiều người tán thưởng, ví dụ như: 
Nằm nghe
chăn gối rơi. Cùng
tháng năm bằn bặt
Phật còn ở không. 
Tôi nhìn
tôi rất chon von                                 
núi non âm bản
rừng son vẽ
Buồn”.        
             (Buồn)
 ...Còn một điểm cuối cùng nữa chúng ta cần phải làm rõ, đó là: Thơ lục bát có tồn tại trong một số nền thơ khác, ngoài thơ tiếng Việt hay không. Ở trên, chúng ta đã có đề cập đến một nhà thơ cổ điển Việt Nam, đó là cụ Nguyễn Huy Oánh, từ thế kỷ XVIII đã dùng thể lục bát để viết bài thơ du ký dài “Phụng sứ Yên Kinh tổng ca” bằng chữ Hán. Nhưng đó vẫn là lục bát chữ Hán do một tác giả Việt Nam viết, không phải thơ của người Trung Hoa. Riêng có ý kiến của nhà thơ Inrasara dân tộc Chăm mới đáng phải lưu ý, khi ông cho rằng: Có tồn tại một kiểu thơ lục bát của người Chăm (Champa hay Chiêm, theo nhiều cách gọi).
Theo nhà thơ Inrasara, dạng thơ của người Chăm có tên gọi là Ariya có rất nhiều điểm tương đồng với thơ lục bát Việt. Thể thơ Ariya này gieo vần ở chữ thứ 6 dòng lục, hiệp vần với chữ thứ 4 dòng bát, giống như câu ca dao Việt:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.
Và cũng theo ông Inrasara, vần của thơ Ariya Chăm có thể là vần trắc, chứ không nhất thiết chỉ là vần bằng. Trong lục bát Việt cũng có hiện tượng tương tự:
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi.
Tuy nhiên, có một điểm mà nhà thơ Inrasara cũng thấy rõ sự khác biệt giữa thơ Chăm và thơ Việt, đó là: Ngôn ngữ Chăm là ngôn ngữ đa âm tiết, không phải ngôn ngữ đơn âm như tiếng Việt. Theo tôi, chính đó là điều khác biệt cơ bản. 
Nhà thơ Inrasara cho rằng, có thể đếm các chữ trong câu thơ Ariya Chăm theo số âm tiết chủ đạo (của ngôn ngữ đa âm) mà không lệ thuộc vào số lượng chữ trong câu. Hoặc có thể đếm theo số lượng trọng âm ở các từ trong một câu, giống như các tiếng châu Âu, khi trọng âm rơi vào đâu, thì phải đọc nhấn rõ vào âm ấy, còn các âm khác không phải trọng âm, thì có thể đọc lướt đi, có khi còn bị nuốt đi cũng không tính. Và như vậy, có thể không cần đếm hết tất cả số âm không nhấn ấy, mà chỉ cần tính “công thức 6-8” nằm ở các trọng âm mà thôi!
Ví dụ đoạn thơ sau, có vần ở các chữ: crong với tapong (câu 1-2) và harơk với pơk (câu 3-4), vần nằm ở trọng âm giữa câu có 8 âm tiết, và 2 câu sau là vần trắc:
 Mai brik dei brei pha crong
Tangin dei tapong kauk luk mưnhưk,
Bbuk ai tarung yuw harơk
Tangin dei pơk nhjwok yuw tathi
 (Đoạn trích thơ Chăm của Inrasara)
Nghĩa là: 
Về đi, đôi ta đùi gác
Bàn tay em vuốt, đầu xức dầu thơm,
Tóc anh bù rối như rơm
Tay em vuốt lên, mượt như lược chải
 (Lời dịch của Inrasara)
Như vậy, có thể thấy dạng thơ Ariya này cũng có một chút hơi hướng hiệp vần theo kiểu thơ lục bát, nói rõ hơn là biết hiệp một vần lưng cùng với một vần cuối câu, dù vần lưng đó là ở âm tiết thứ 4 hay thứ 6 của câu có 8 âm tiết chủ đạo (trọng âm), mà vần đó có thể là vần bằng hoặc vần trắc, tùy theo mỗi câu thơ.
Tuy nhiên, chừng ấy là chưa đủ để chúng ta khẳng định rằng đó là thể thơ lục bát hoặc tương đồng lục bát, lý do thật đơn giản: tiếng Chăm vốn là tiếng đa âm, nên không thể chỉ đếm âm chủ đạo, hay các trọng âm, để từ đó có thể coi nó thực sự là câu có 6 hay 8 âm tiết chính. Cho dù các âm không phải trọng âm, có thể đọc nuốt đi, hoặc đọc lướt đi, nhưng không thể bảo rằng nó không có, vì vậy, câu thơ đọc lên vẫn bị kéo dài, các âm phụ bị dôi dư ra, làm tiết tấu câu thơ nặng thêm, nhạc tính câu thơ bị phá mất sự cân đối, còn các âm thì không được phân biệt rành rẽ (vì khi đọc nối dính vào nhau), còn cao độ và trường độ của các âm thì không bao giờ có thể sắc nét và phân minh như khi ta đọc câu thơ lục bát tiếng Việt. Còn khi viết ra trên giấy, thì nó lại càng lộ rõ khiếm khuyết, khi không cho ta hình dung được cụ thể và chính xác, rằng đó là các câu thực đúng chỉ có 6 từ hay đúng chỉ có 8 từ rõ rệt. Và như thế, sao lại có thể gọi là thơ lục bát được?.
Phân tích trên đây đủ để chúng ta thêm một lần nữa, khẳng định rằng thơ lục bát là một thể thơ đơn thuần chỉ có được của dân tộc Việt, đã có quá trình hình thành và phát triển hữu cơ trong môi trường văn hóa Việt qua nhiều thế kỷ, không thể tách rời khỏi những ưu thế độc đáo của ngôn ngữ đơn âm và đa thanh trong tiếng Việt, nhờ thế, câu thơ có nhạc điệu bổng trầm. 
Nhạc điệu của thơ lục bát rất gần gũi với nhạc điệu những bài dân ca, bài hát ru con... hồn hậu và thâm thúy từ xa xưa trong dân gian; lại gần gũi với những điệu hò, điệu vè, hát ví, hát dặm... phóng túng và hồ hởi khi hỏi han, động viên nhau trong lao động sản xuất; thêm nữa, nó cũng đồng thời là “họ hàng” thân cận của các làn điệu âm nhạc dân tộc trên sân khấu truyền miệng tự nhiên, phát xuất từ nhiều đời, như các điệu hát xoan, hát xẩm, hát quan họ, hát trống quân... Vì nó quá thân quen, gần gũi với chúng ta, nên có thể nói không ngoa, rằng mỗi người Việt bẩm sinh đều có thể tự sáng tác hay tự ngâm nga một vài câu lục bát ứng khẩu, khá là “sạch nước cản” trong mọi hoàn cảnh và mọi điều kiện khác nhau, những lúc tự dưng “tức cảnh sinh tình”. Đấy cũng là một nét độc đáo tự nhiên và đáng yêu nữa của mỗi tâm hồn Việt đối với thơ lục bát, để bạn bè nước ngoài có thể nói nửa đùa nửa thật, rằng người Việt nào cũng đều biết làm thơ cả!
Tuy nhiên, rộng thì rất rộng mà cao thì lại rất cao, đó mới là cái khó và cái tinh của thể loại thơ này! Hò vè ứng khẩu tuy thú vị đấy, nhưng vẫn chưa thể được công nhận là thơ!  Làm thơ lục bát tài hoa phải đến đỉnh cao bậc “ thi thánh”, ai ai cũng phải tâm phục khẩu phục, thì chỉ mới có cụ Nguyễn Du, người mà “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” trong các câu Kiều của cụ, để hàng trăm năm nay vẫn không có ai sánh nổi! Và thứ thơ lục bát “thứ thiệt” ấy vẫn là những đỉnh cao vời vợi, đầy hấp dẫn và bí ẩn, đang mong chờ tất cả chúng ta chinh phục.
Thơ lục bát  xứng đáng  được đặt  ở vị trí  “Quốc thi”
Xuân Quỳnh - một trong các nhà thơ hôm nay tiếp nối được truyền thống của lục bát cùng những nét mới đan xen.
Với những điều kỳ diệu và hiếm thấy như thế, từ tính bình dân đến tính bác học, từ tính lịch sử đến tính văn hóa, từ mặt bằng dễ phổ cập đến đỉnh cao vô tận không dễ gì đạt tới, thơ lục bát luôn có một tiềm năng hấp dẫn với tất thảy mọi người. Âm điệu, tiết tấu và nhạc tính của nó từ bao đời luôn chinh phục được mọi trái tim và khối óc người Việt hơn tất cả mọi hình thức và thể loại thơ nào khác.
Và quả thật sẽ không ngoa, nếu chúng ta đồng lòng tôn vinh tài sản tinh thần độc đáo và vốn quý vô song là thể thơ lục bát của chúng ta, xứng đáng được đặt ở vị trí “Quốc thi” trong gia tài thi ca và văn hóa dân tộc.
(0) Bình luận
  • Nhà văn Hoàng Quốc Hải: “Một nhà văn đúng nghĩa phải đồng thời là một nhà văn hóa”
    Nhà văn Hoàng Quốc Hải sinh năm 1938 tại Hải Dương là một trong những cây bút tên tuổi của văn học Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử. Trước khi chuyên tâm sáng tác, ông từng là phóng viên báo Vùng mỏ (nay là báo Quảng Ninh), rồi làm biên tập viên tập Sáng tác Hà Nội - tiền thân của tạp chí Người Hà Nội. Với sự nghiệp trải dài hơn nửa thế kỷ, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm qua hai bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tám triều vua Lý” và “Bão táp triều Trần”. Những tác phẩm này không chỉ tái hiện chân thực lịch sử dân tộc mà còn thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với Hà Nội - mảnh đất nghìn năm văn hiến. Hãy cùng lắng nghe nhà văn chia sẻ về hành trình sáng tác, những trăn trở về đề tài lịch sử và lời nhắn gửi tâm huyết đến thế hệ trẻ yêu nghề viết.
  • Nhà văn Tô Hoài: Người “thuyền trưởng” tâm huyết và bản lĩnh
    Trong chặng đường 40 năm của Tạp chí Người Hà Nội, dấu ấn của nhà văn Tô Hoài - Tổng Biên tập đầu tiên vẫn luôn hiện hữu sâu đậm. Không chỉ là người đặt nền móng, định hướng phát triển cho tờ báo, ông còn là người truyền cảm hứng về một cách làm báo cẩn trọng, tinh tế, nhân văn và tràn đầy trách nhiệm.
  • Người Hà Nội trong tôi
    Suốt hành trình 40 năm xây dựng và phát triển, Người Hà Nội luôn nhận được sự đồng hành, đóng góp các cây bút thuộc nhiều thế hệ, trong và ngoài nước, từ chuyên nghiệp đến không chuyên. Qua mỗi bài viết, họ đã mang đến những góc nhìn, cảm xúc mới mẻ góp phần gìn giữ bản sắc riêng của tạp chí. Dưới đây là những chia sẻ chân thành của một số cộng tác viên về kỷ niệm và sự gắn bó sâu sắc mà họ dành cho tạp chí Người Hà Nội trong suốt những năm qua.
  • Vài kỉ niệm với tập “Sáng tác Hà Nội”
    Chi hội Văn nghệ Hà Nội (sau là Hội Văn nghệ Hà Nội - tiền thân của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội) được thành lập vào tháng 10 năm 1966.
  • Người Hà Nội - 40 năm đồng hành với văn nghệ sĩ Thủ đô
    Tạp chí Người Hà Nội tiền thân là ấn phẩm Sáng tác Hà Nội do Chi hội Văn nghệ Hà Nội (nay là Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội) phát hành từ năm 1967. Ngay từ thuở ban đầu, ấn phẩm là một diễn đàn nhỏ nhưng có sức sống mạnh mẽ, nhanh chóng trở thành nơi quy tụ các sáng tác của văn nghệ sĩ Hà Nội.
  • "Người Hà Nội" đã và đang làm tốt sứ mệnh lan tỏa văn hóa Thủ đô ngàn năm văn hiến
    "Người Hà Nội" sẽ mừng "sinh nhật" tuổi 40 vào ngày 8/5/2025. Chặng đường 40 năm xây dựng và phát triển, Người Hà Nội đã có được một “hệ thống” cộng tác viên là văn nghệ sỹ ở nhiều lĩnh vực: văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, lý luận phê bình;… các nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà khoa học hàng đầu Thủ đô và cả nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Khám phá chiều sâu văn hóa Việt Nam từ góc nhìn lịch sử và thời đại
    Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, văn hóa luôn là nền tảng tinh thần, là sợi dây kết nối bền chặt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng, việc nhận diện và phát huy giá trị văn hóa Việt Nam trở nên ngày càng cấp thiết. Cuốn sách “Khám phá văn hóa Việt Nam: Từ tiếp cận lịch sử đến tầm nhìn thời đại” (NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2025) của GS.TS Phạm Hồng Tung là một công trình nghiên cứu quy mô, góp phần lý giải tiến trình hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam từ chiều sâu lịch sử đến những vấn đề đặt ra trong thời đại mới.
  • Lễ trao giải Báo chí về "Phát triển Văn hóa và xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh" lần thứ VIII - năm 2025
    Tối 19/10, tại Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), Thành ủy Hà Nội tổ chức Lễ trao Giải Báo chí về Phát triển văn hóa và xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh lần thứ VIII - năm 2025. Tạp chí Người Hà Nội giành giải C và giải Khuyến khích - Giải Báo chí về Phát triển văn hóa và xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh lần thứ VIII - năm 2025.
  • Triển lãm “Sắc Thu mới” - lời tri ân và tôn vinh người phụ nữ Việt Nam
    29 tác phẩm hội họa của 21 nữ hội viên Hội Mỹ thuật TP.Huế đang được trưng bày tại triển lãm “Sắc Thu mới” tại Bảo tàng Mỹ thuật Huế để tri ân và tôn vinh người phụ nữ Việt Nam.
  • Hà Nội tiếp nhận hơn 24,48 tỷ đồng ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do bão lũ
    Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, tính đến 17h32' ngày 17/10, số tiền các tập thể, cá nhân đã chuyển về qua Ủy ban MTTQ Việt Nam TP Hà Nội ủng hộ Nhân dân các tỉnh, thành phố khắc phục thiệt hại do bão số 10, 11 gây ra là hơn 24,48 tỷ đồng.
  • Hà Nội kiện toàn thành viên Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ
    Chủ tịch UBND Thành phố Trần Sỹ Thanh vừa ký ban hành Quyết định số 5144/QĐ-UBND ngày 15/10/2025 về việc kiện toàn thành viên Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ thành phố Hà Nội.
Đừng bỏ lỡ
Thơ lục bát xứng đáng được đặt ở vị trí “Quốc thi”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO