Vài kỉ niệm với tập “Sáng tác Hà Nội”
Chi hội Văn nghệ Hà Nội (sau là Hội Văn nghệ Hà Nội - tiền thân của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội) được thành lập vào tháng 10 năm 1966.
Trước thời điểm Chi hội chính thức ra đời, Sở Văn hóa Hà Nội đã sớm tập hợp được một đội ngũ sáng tác khá đông đảo, gồm khoảng năm đến sáu chục cộng tác viên trong Câu lạc bộ Sáng tác trẻ. Lực lượng này chủ yếu tập trung sáng tác cho một số ấn phẩm mang tính chuyên đề như “Tiếng máy” - phản ánh cuộc sống công nhân trong các nhà máy; “Tiếng hát quê ta” - viết về người nông dân vùng ngoại thành; và “Đường phố mới” - phản ánh sinh hoạt của khối dân cư nội thành.


Khi Chi hội Văn nghệ Hà Nội chính thức thành lập, một phần lực lượng sáng tác ban đầu của Sở Văn hóa Hà Nội đã được điều chuyển về công tác trực tiếp tại Chi hội. Trong số đó có các cây bút như Chu Hà, Lê Bầu, Huỳnh Tâm Chí... Nhằm định hướng và nâng cao chất lượng hoạt động sáng tác, Chi hội mời thêm một số nhà văn có uy tín từ Trung ương tham gia Ban chấp hành để dìu dắt phong trào, tiêu biểu là các nhà văn: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Xuân Sanh, Anh Thơ, Hồ Phương, Nguyễn Kiên, Bùi Hạnh Cẩn, Bùi Huy Phồn, Huyền Kiêu, Bích Thuận, Mộng Sơn… Tổng thư ký đầu tiên của Chi hội là nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Ban chấp hành Hội quy tụ nhiều tên tuổi đã thành danh trong giới văn chương, hội họa và sân khấu, mỹ thuật, âm nhạc… Ngành văn chia thành hai bộ phận: sáng tác và xuất bản. Tuy lực lượng sáng tác lúc đầu còn mỏng nhưng để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, Chi hội đã mạnh dạn ra mắt bạn đọc tập Sáng tác Hà Nội mỗi quý một số rồi tiến tới định kỳ hai tháng một số.

Người phụ trách ấn phẩm này là nhà văn Kim Lân và Thư ký tòa soạn tạm quyền là tôi (Hoàng Quốc Hải). Ban biên tập gồm các cây viết dày dặn kinh nghiệm: nhà văn Lê Mạc Lân (con trai nhà văn Lê Văn Trương) chuyển từ báo Tiền Phong sang; nhà văn Lê Bầu từ phòng Văn nghệ - Sở Văn hóa Hà Nội qua; nhà thơ Hoài Anh, cũng từ Sở Văn hóa Hà Nội qua; nhà văn Hà Ân, chuyển từ trường Văn hóa Quân đội sang. Bên cạnh đó còn có biên tập viên Trần Thị Minh Tâm tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Vài năm sau, đội ngũ biên tập tiếp tục được bổ sung những gương mặt mới: nhà thơ Tô Hà từ Nhà xuất bản Phổ thông; nhà văn Vũ Bão từ Ty Thông tin tỉnh Hà Nam; nhà văn Thọ Sơn từ Bộ Giáo dục chuyển về. Phụ trách trình bày tạp chí là họa sĩ Lê Minh Phác còn phần ảnh của tạp chí do nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Đỗ Huân đảm nhiệm. Chánh văn phòng Hội khi đó là nhà thơ Tân Trà - nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị một cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc.
Phải nói không khí sáng tác trong những năm đó cực kì sôi nổi. Chúng tôi chủ trương dựa vào lực lượng cộng tác viên là chính. Các nhà văn trong ban biên tập vừa đảm nhiệm công việc biên tập vừa luân phiên đi sáng tác. Bài vở được sử dụng theo nguyên tắc rõ ràng, ví dụ mỗi số tạp chí đăng từ 2 đến 3 truyện ngắn. Biên tập viên cũng được phép gửi bài như cộng tác viên nhưng nếu chất lượng bài viết ngang nhau thì ưu tiên lựa chọn bài của cộng tác viên. Riêng phần bút kí là phần phản ánh đời sống và hoạt động của thành phố đòi hỏi phải bám sát thực tế mới viết được. Vì vậy các biên tập viên phải thay nhau đi cơ sở thu thập tư liệu và trực tiếp viết bài.
Nhờ cách làm việc như vậy, chúng tôi vừa bám sát phong trào của thành phố, vừa giữ mối quan hệ chặt chẽ với đội ngũ cộng tác viên. Một mạng lưới cộng tác viên đa dạng đã được thiết lập trải dài qua nhiều thế hệ. Lớp “bậc trên” gồm những tên tuổi lớn của văn đàn như: Nguyễn Tuân, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Bàng Sĩ Nguyên, Trần Lê Văn, Quang Dũng, Ngô Quân Miện… Lớp kế cận là những gương mặt trẻ đầy triển vọng như: Đặng Nhật Minh, Trúc Thông, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Nghiêm Đa Văn... và kế nữa là Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Hoàng Bách, Đoàn Trúc Quỳnh, Giang Thái Học… Và lớp “đàn em” nhất lúc bấy giờ là Hoàng Nhuận Cầm, Từ Ngọc Lang, Doãn Minh Thịnh…
Nhờ mạng lưới cộng tác viên rộng khắp nên bài vở của ấn phẩm Sáng tác Hà Nội rất phong phú và đa dạng, nhanh cũng phải ba tháng tác giả mới được in lần thứ hai. Ngay cả “cỡ bự” như nhà thơ Xuân Diệu cũng phải… xếp hàng. Đó là với bài tự gửi đến, còn những bài đặt riêng thì đương nhiên được ưu tiên sử dụng ngay.
Việc biên tập ấn phẩm được thực hiện rất nghiêm túc, theo đúng quy định. Mỗi truyện ngắn của cộng tác viên đưa tới đều phải qua hai biên tập viên cùng đọc. Sau khi đọc, cả hai đều phải có bản “giám định”, nhận xét nội dung, phân tích những điểm mạnh - yếu của truyện, chỉ rõ những đoạn cần cắt bỏ hoặc chỉnh sửa. Tiếp đó, một trong hai biên tập viên sẽ được phân công làm việc với tác giả, đưa ra gợi ý để tác giả tự chỉnh sửa nếu họ đồng ý. Thật ra, những tác giả viết có chất lượng, bài viết của họ thường không phải sửa gì nhiều.
Một trường hợp khiến tôi nhớ mãi đó là khi chuẩn bị số Tết cho tạp chí. Nhà thơ Hoài Anh gửi tôi bài thơ “Bức tranh gà” thật hay, thật ấn tượng. Tôi nhớ nhất mấy câu kết: “… Gà từ trong tranh/ Bước ra cuộc đời/ Gáy lên gà ơi!”
Tuy nhiên, khi nhà văn Kim Lân trả lại tôi tập bản thảo ông đã duyệt để chuyển sang nhà in, tôi kiểm không thấy bài “Bức tranh gà” đâu cả. Tôi hết sức ngạc nhiên và phản ứng có phần gay gắt: “Tại sao anh lại loại bài của Hoài Anh?”. Với giọng chùng xuống nghe có vẻ thiểu não, đúng chất của Kim Lân, ông nói: “Ai chả biết cái bài thơ ấy hay. Nhưng mình sợ”. “Anh sợ gì?”, tôi hỏi lại. Ông thật thà trả lời: “Mình sợ cậu này tuồn thơ của Lê Đạt vào. Vì Hoài Anh hay chơi với cánh “Nhân văn” lắm”. Tôi nhanh trí nói luôn: “Anh đa nghi quá. Hoài Anh viết bài đó từ mấy tháng trước, còn khoe tôi bản nháp cơ”. Nhà văn Kim Lân tin ngay, liền uể oải đứng dậy lục tập bài lai cảo và trả lại tôi đúng bài “Bức tranh gà”.
Thật ra, sau cuộc trò chuyện này tôi cũng giật mình. Ngay tối hôm ấy, tôi nói Hoài Anh cho xem bản nháp quá trình anh làm bài thơ đó. Hoài Anh đem tới, tôi mở xem. Quả nhiên, anh sửa chữa rất công phu cuối cùng mới được bài thơ thật ấn tượng. Số Tết năm ấy, bài “Bức tranh gà” chiếm ngôi đầu bảng và cuối năm còn được trao giải chính thức.
Hoài Anh là người có chân tài. Anh viết được đủ thể loại. Thiếu bài mảng nào, tôi chỉ cần nói: “Hoài Anh giúp mình bài này” là anh ngồi vào bàn, khoảng một, hai giờ sau là đã có bài. Hằng ngày, Hoài Anh rời tòa soạn đi biệt. Anh giao du rộng, chuyện đầu đường xó ngõ trong thành phố không gì mà anh không biết. Hồi đó, Hoài Anh là “triệu phú thời gian”, vì vậy mà số lượng tác phẩm của anh thật đáng nể: từ thơ, văn, kịch, cải lương, phê bình… thể loại nào anh cũng có ít nhất 2 - 3 tác phẩm trở lên. Ấy là chưa kể tới mảng văn học dịch của anh cũng để lại nhiều dấu ấn.
Nhưng thật đáng tiếc, cái thời sôi động đáng nhớ ấy của tập “Sáng tác Hà Nội” chỉ kéo dài được vài ba năm rồi dần xuống cấp, chủ yếu do những biến động ngoài văn chương. Đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, tôi chuyển công tác sang Bộ Văn hóa cho đến lúc về hưu. Năm 1985, tập Sáng tác Hà Nội chuyển thành tuần báo Người Hà Nội do nhà văn Tô Hoài làm Tổng biên tập. Tiếp đó là nhà thơ Vũ Quần Phương kế nhiệm. Đến năm 2021, tuần báo lại chuyển sang mô hình tạp chí và duy trì phát triển đến tận hôm nay./.