Và từ trong những tiếng trẻ rao đêm, từ trong những tiếng chà o thưa lảnh lót của mấy bà , mấy chị ta đang nghe một lời nhắn nhủ dịu dà ng. Sông Hồng hạ vử nước lên, thu qua, nước rút, bơ vơ bử bãi, bơ vơ đám người. Hà Nội vẫn thế lam lũ mà yêu dấu...
Tôi đã quen ngồi ở những quán nước nhom nhem, đi đâu xa vử là chỉ thèm được rủ bạn sà và o ngồi những chỗ ấy, ngồi vật vạ bên những người chẳng cần quen biết, thà nh thân thiết sau một tuần trà , sau hơi thuốc là o. Ngồi để nghe những chuyện vụn vặt, nói với nhau những chuyện vụn vặt. Thế thôi. Có lúc tôi lo lắng, rồi ra khi phố phường đã khang trang thì mấy cái quán cóc kia sẽ phải mất đi.
Không biết ai đã đặt cho nó cái tên nghe gợi cảm vậy. Những chú cóc ngồi thu lu dưới gầm cầu thang các nhà tập thể, dưới một gốc cây, dưới chân bức tường, dưới hiên hoặc bên một lối đi trong ngõ vắng. Những con cóc ngồi ở khắp các là ng quê và trong đủ ngóc ngách các thà nh phố lớn nhử. à‚u đó cũng là một biểu tượng nặng kỷ niệm của một quá khứ đang lùi xa trông thấy.
Quán cóc không chỉ bán nước trà , khi người ta nói mời bác và o hà ng uống nước thì không có nghĩa ở đây chỉ có nước mà còn có đủ hoa quả, bánh trái, quả ổi, quả hồng, bánh gai, bánh gửi. Cũng như khi người ta mời bác và o xơi nước lại còn có ý mời bác và o hà ng tôi ăn bát cháo, bát bún măng hoặc nắm xôi. Cho nên chỉ có thể nói quán cóc là rất sinh động.
Nghe nói nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn trước lúc trở vử mặt trận Nam bộ sáng sáng vẫn hay tìm ra quán nước đầu đường Quán Thánh, ngồi đấy nhâm nha chén trà Thái đặc sánh và đọc cho bằng hết tử báo vừa in. à”ng Tế Hanh cũng vậy, những năm còn khửe rất hay ra ngồi ở một quán cóc trước cổng chùa Thiửn Quang, ngồi đó uống đúng một chén trà Tân Cương, ăn đúng một cái kẹo vừng và ngậm đúng một điếu thuốc thủ công nhãn hiệu Con gà trống.
Lâu dần thà nh quen, dịp nà o thấy ông vắng mặt là bà chủ quán lại hửi dò, ông ấy đi công tác hay có vấn đử sức khửe. Bà chủ quán vốn là giáo viên dạy văn học, gia cảnh gặp cơn túng quẫn phải bử nghử ra ngồi ở góc chùa, cho nên bà ấy rất rõ thơ ông. Một lần Tế Hanh ngậm điếu thuốc toan rút mấy hà o ra trả liửn bị bà gắt, thôi từ nay trở đi ông cứ để tiửn ở nhà , ra đây ông muốn uống muốn ăn muốn hút thế nà o là tùy, tôi lo cho cả, Hà Nội ta nghèo nhưng không thể để một nhà thơ như ông phải vất vả mãi thế nà y. Nhà thơ nghe thế chỉ cười hiửn là nh, còn bà chủ quán thì rên lên xót xa như đang bị xát muối trong lòng.
Rất nhiửu nhà văn, kể cả những người nổi tiếng, ít nhiửu đửu đã từng ngồi với nhau trong các quán nước đâu đó, duy chỉ có ông Nguyễn Đình Thi là không. Cụ Kim Lân bình luận, đấy là một ông quan. Cụ Nguyên Hồng thì bảo, không phải thằng nà o cũng dám ngồi ăn cơm đầu ghế như tao. Còn cụ Tô Hoà i thì chỉ vừa nhấm nháp vị trà vừa tủm tỉm cười giữa chúng bạn.
Một hôm cụ Nguyễn Công Hoan ngồi trong quán bực bội kể câu chuyện cụ đến trao gươm báu cho Bảo tà ng Lịch sử. à”ng cụ vử thăm Hải Dương, kiếm được ở nhà nà o một thanh gươm cổ, từ đời Lý đời Trần gì đó.
Cụ quyết định mang vử trao trả cho Bảo tà ng Quốc gia. ấy vậy mà khi mang gươm tới thì cậu thường trực không đếm xỉa gì đến gươm quý, cậu ta gạt phắt và nói sắp đến giử ăn cơm trưa, chiửu cơ quan bận họp công tác thi đua, vậy mai cụ phải mang gươm đến đúng giử, còn phải lập biên bản khai rõ xuất xứ bảo vật, lý lịch người có bảo vật, chứng nhận của địa phương, vân vân và vân vân.
à”ng cụ ức quá đà nh ôm gươm quay vử. Phải ngà y xưa mà xem, ngà y xưa gặp chuyện oái oăm như thế là ông có ngay một truyện ngắn bi hà i chảy nước mắt, mang in báo giấy lấy mấy đồng uống rượu. Ngà y xưa cầm bút vui lắm, ngồi và o bà n là chữ cứ tuôn trà n ra giấy.
Rồi đến một hôm cụ Hoan quay xè xè cái máy điện thoại cũ mèm gọi tới nhà cụ Tuân, hẹn gặp nhau tại trụ sở Hội Nhà văn lúc đó còn ở đường Nguyễn Du. Cụ Tuân tức thì mò xuống cầu thang, thủng thẳng bước ra đường, miệng cắn tẩu, tay chống can. Cụ Hoan đến ngồi trước đợi bạn trong mảnh sân trải sửi trên một chiếc ghế đá bên cạnh gốc thiết tùng cổ thụ, hai tay ôm khư khư thanh gươm báu gói trong tử báo cũ.
Đợi khi cụ Tuân đã yên vị, cụ Hoan nói, tôi mang biếu ông vật nà y là vì biết ông là người am tường sử sách, quý nhân tầm quý vật. Cụ Tuân gật gù cười mở gói báo lấy thanh kiếm ra ngắm nghía lúc lâu. Quý lắm đây, thập tải luân giao tầm cổ kiếm, gọi nó là đoản kiếm hay là một thanh quất cũng được. Nà y, nếu bây giử ta buộc nó bên sườn mà đi ra ngoà i kia rất có thể sẽ bị huýt còi giữ lại, không khéo còn bị lôi và o Hửa Lò thẩm vấn ấy chứ, vì họ nghĩ mình là ninza cũng chưa biết chừng.
Dẫu sao anh đã có lòng thì tôi cũng cứ xin giữ hộ anh. Vua Sở đánh rơi cung, người Sở bắt được cung, cũng không đi đâu mà bảo là mất. Đó là một thanh kiếm ngắn han gỉ lỗ chỗ như những mụn ghẻ.
Đến ngà y Sà i Gòn giải phóng, cụ Tuân là một người của cơ quan có mặt trong đó sớm nhất, cụ Tô Hoà i phải năm hay sáu năm sau mới thấy và o. Với nhà thơ Chính Hữu thì phải mười năm sau nữa, tác giả Ngọn đèn đứng gác khi ấy mới có dịp tới Sà i Gòn nhân chuyên đi tổ chức buổi gặp gỡ của các nhà văn cựu binh Việt “ Mử¹.
Anh em văn nghệ giải phóng đón rước cụ Tuân nồng hậu như đón một người anh cả. Hội Văn nghệ thà nh phố lúc đó vừa ở rừng ra được bố trí đến tiếp quản một ngôi nhà Tây cổ, trong một khu vườn đẹp. Lúc họ dọn đến trong buồng khách vẫn đang bà y nguyên vẹn đôi lọ lục bình cao và cũng lại có một thanh gươm treo trên tường. Để có thêm chút tiửn sửa mấy cánh cửa ra và o, anh Viễn Phương đã nhử anh Quang Sáng đi tìm cho một người sà nh chơi đồ cổ đến khuân những thứ đó đi hộ.
Hai chiếc lục bình được mang đi luôn, riêng có thanh gươm là còn ở lại. Hình như nó còn muốn đợi một quý nhân nà o đó nay mai sẽ đến. Rồi người ấy đến thật, đấy chính là cụ Nguyễn Tuân. Ngồi chưa nóng chỗ cụ đã đòi mang gươm xuống để thẩm định. Viễn Phương thật thà nói luôn, đây là ngôi nhà bố mẹ Nguyễn Văn Thiệu, ngà y ông ta lên Tổng thống có người đã là m một chiếc kiếm mang đến tặng, nay anh và o chơi trong nà y xin được tặng anh để anh mang vử Hà Nội là m kỷ niệm. Cụ Tuân chép miệng bảo, thanh gươm quyửn lực là nó đây, thôi được để hôm nà o mình ra thì nhớ nhắc mình đem vử. Đời mình nghĩ cũng lạ, toà n nhận được những gì người ta muốn vứt đi.