Đời sống văn hóa

Phong tục Tết qua một số ghi chép, văn thơ cổ

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến 07:55 20/01/2025

Trong bản thảo “Nguồn gốc Tết Nguyên Đán ở Việt Nam” hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia 3, học giả Trần Văn Giáp (1902 - 1973) cho rằng, người Việt ăn Tết Nguyên đán từ đầu thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.

11-1642163775558.jpg

Về Tết Nguyên Đán, giáo sư Trần Quốc Vượng (1934 - 2005) trong bài “Văn hóa Tết và Tết văn hóa” đã viết: “Cái Tết mà như ngày nay bắt đầu khoảng trước Công nguyên hơn 100 năm, từ đời Hán và có cội nguồn đan xen văn hóa Việt - Hoa. Tết là đọc trại của chữ Tiết, Nguyên là sơ khai, đầu tiên, Đán là buổi sớm, Nguyên Đán là buổi sớm đầu tiên của ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm mới. Tết Nguyên Đán là Tết mừng năm mới”.

Thơ về Tết, về xuân thì xưa nay khá nhiều nhưng nói về phong tục truyền thống lại khá kiệm. Có thể Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) là người sớm nhất đưa phong tục Tết vào thơ. Trong bài chữ Hán “Nguyên Đán thư đường” (Tết Nguyên Đán ở phòng đọc sách) ông viết:

Nhà tranh đêm gió đông vào
Tin truyền xuân đến từ đầu canh năm
Biết xuân là cỏ trong sân
Bùa trừ tà quỉ chẳng cần đào thiêng
(GS.TS Kiều Thu Hoạch dịch)

Bùa trừ quỉ là gì? Xưa, Tết được tính từ 23 âm lịch, ngày theo tín ngưỡng ông Công, ông Táo về thiên đình. Từ ngày này cho đến giao thừa, thời điểm ông Công, ông Táo trở lại hạ giới thì vũ trụ vô chủ tâm linh. Thừa cơ hạ giới không ai cai quản, ma quỉ hoành hành dọa nạt lương dân. Từ thế giới thực đến thế giới ảo chẳng có gì hoàn hảo, điểm yếu cốt tử của ma quỉ là chúng rất sợ màu đỏ nên nhà nhà lấy mảnh gỗ sơn màu đỏ rồi vẽ hình ông Thần Đồ và Uất Lũy, khắc tinh của ma quỉ treo ở cửa. Miếng gỗ đó gọi là bùa đào (chữ Hán là Đào Phù). Sau đó người Việt thay bùa đào bằng cành hoa đào và ngày nay, đào mang ý nghĩa trang trí. Về tục này, bài “Tứ thời khúc vịnh” bằng chữ Nôm của Hoàng Sĩ Khải (người đỗ tiến sĩ năm 1544, làm quan triều Mạc rồi Lê Trung Hưng) có câu: “Đào phù cấm quỉ phòng linh ngăn tà”.

Cổ nhân nói “Phi tửu bất thành lễ”, tuy nhiên không phải rượu nào cũng được uống trong ba ngày Tết. Rượu uống Tết phải có tác dụng ngăn bệnh và có ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh. Trong bài “Nguyên nhật” (Ngày mồng một Tết), Phùng Khắc Khoan liệt kê có ba loại rượu Tết: “Khi mà một chạp đã xoay vần/ Mừng bấy đông qua lại đến xuân/ Rượu bách đầu năm trừ giá lạnh/ Rót chén Đồ Tô đà rảnh việc/ Mâm tiêu dâng kính đón lương thần/ Lại đem ngũ phúc chúc cha thân”. (GS.TS Kiều Thu Hoạch dịch)

Rượu bách là rượu ngâm với những miếng gỗ bách nhỏ, cây này chịu được rét nên xưa có tục ngày Tết người ta mời uống rượu bách để trừ phòng hàn và cũng là lời chúc sống lâu trăm tuổi. Đổ Tô là tên gọi một loại lều cỏ. Tương truyền xưa có người sống trong lều cỏ, vào ngày cuối năm đã đem ngâm túi thuốc có nhiều vị xuống giếng thơi, sáng mồng một múc nước giếng pha vào rượu, mời mọi người uống sẽ trừ được dịch bệnh trong cả năm. Còn mâm tiêu là một loại rượu ngâm với rễ và quả liêu tiêu có mùi thơm cay có tính kháng khuẩn cao với nhóm vi khuẩn lỵ và thương hàn, trừ được tà khí. Theo phong tục cổ, mồng một Tết, con cháu trong nhà đặt rượu tiêu vào mâm dâng kính ông bà, cha mẹ để chúc thọ nên tục đó gọi là rượu mâm tiêu. Trịnh Hoài Đức (1765 - 1828) làm quan triều Nguyễn đi công tác sang Campuchia đúng dịp Tết đã cảm tác “Nguyên nhật khách Cao Miên quốc” (Ngày mồng một Tết đang làm khách ở Cao Miên) có câu: “Quê người rượu bách ai mời chén/ Vườn cũ cây đi vắng dự trò/ Đào thắm đỏ chen đèn đánh cá/…” (Đào Phương Bình dịch). Tức là đầu thế kỷ 19 vẫn còn tục uống rượu bách vào dịp Tết và hoa đào đã thay đào phù.

Với các Nho sĩ, không chỉ “Minh niên khai bút bút khai hoa” vào sáng mồng một mà còn viết chữ “Nghi Xuân” (hợp với mùa xuân) vào giấy rồi dán ở cửa sổ để cầu phúc đón xuân coi đó như bùa thiêng. Trong “Tứ thời khúc vịnh” cũng nhắc đến tục này “Tú Mi là thiếp, Nghi Xuân là bùa”. Báo Thanh Nghị số 29-31 tháng 2/1943, dịch lại ghi chép của Linh mục Giovanni Filippo de Marini (1608 - 1682) về Tết Nguyên Đán ở Đại Việt: “Vào dịp Tết quan to được biếu nhiều nên tất niên đã đem đãi bà con thân hữu và cho lính tráng để ai cũng có cảm tưởng được dự vào Tết”. Thời Lý, Trần có tục vô cùng nhân văn, con trai nhà nghèo không có tiền làm đám cưới nhưng nếu cô gái mà anh ta thương đồng ý đêm 30 họ về ở với nhau thì cha mẹ cô gái sẽ không mang tiếng và dân làng cũng không móc máy, dè bỉu.

Tết có những nghi thức và kiêng kỵ chung song không ít địa phương có tục riêng. Thăng Long là kinh đô, nơi có vua quan, có trí thức Nho giáo, người buôn bán và làm nghề thủ công nên ngày Tết cũng có khác, tục cũng khác. Thời Lê, sáng mồng một, khi nghe trống canh điểm giờ (có thể là giờ Mão hay Dần), ba cỗ thần công trong thành bắn đạn, lúc này vua cởi hoàng bào, tắm nước lạnh sau đó mặc hoàng bào mới ra thiết triều tại đại điện. Các hoàng tử và đình thần đã trực sẵn, chờ triều bái. Xong, vua lui vào cung để nhận lễ của hoàng hậu, phi tần, cung tần, thị nữ. Đêm 30 Tết, khi trống canh điểm giờ chính Tý, dân chúng trong thành sẽ ra đình, đền, chùa lễ. Sư trụ trì, người coi đình, đến sẽ phát lộc, lộc là những cành nhỏ có chồi và lá non, ai ra muộn sẽ được cho một nén hương tượng trưng lộc mang về thắp ở bàn thờ gia tiên. Trước Tết nhà nào ở Hà Nội cũng gói bánh chưng dài tròn biểu tượng cổ xưa về sinh thực khí và bánh chưng vuông, tượng trưng cho triết lý trời tròn đất vuông xuất hiện muộn mằn hơn. Nhưng nhiều gia đình nhà Nho ở Thăng Long không gói bánh chưng dài tròn vì quan niệm tròn đâu cũng lăn là biểu tượng sự láu lỉnh. Họ cho rằng Nho sĩ phải là vuông vắn, có góc cạnh. Khi tả về người Thăng Long uống rượu Tết danh Nho Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã viết trong “Vũ Trung tùy bút” là uống chén nhỏ để mặt hồng hào cho câu chuyện thêm nồng.
Theo quan niệm của các triều vua, nhiều tục cổ bị bãi bỏ. Trong nửa cuối thế kỷ 20, nhiều tục bị cái tiếng hủ lậu nên cũng không còn, có mỹ tục biến mất. Ngày nay, nghi lễ Tết đơn giản, ăn uống không cầu kỳ, nhiều phong tục chỉ còn tìm thấy trong kho tàng di sản tư liệu./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Nhà sản xuất âm nhạc Nguyễn Xinh Xô: Kể chuyện di cư và bản sắc vùng Tây Bắc bằng nhạc điện tử
    Nhà sản xuất âm nhạc Nguyễn Xinh Xô – chủ nhân giải “Bài hát của năm” chương trình Bài hát Việt, vừa phát hành album mới mang tên “The Field of Heritage: City Life”. Đây là album thứ hai của anh chỉ trong vòng 3 tháng và Nguyễn Xinh Xô với sự sáng tạo của mình đã kể câu chuyện di cư, bản sắc vùng Tây Bắc thông qua nhạc điện tử.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
  • Chùm thơ của tác giả Trần Đăng Khoa
    Tạp chí Người Hà Nội xin trân trọng giới thiệu chùm thơ của tác giả Trần Đăng Khoa.
  • “Thưởng vị Hà Nội” tại phố đi bộ Trịnh Công Sơn
    Lễ hội đồ uống Hà Nội 2025 với chủ đề “Thưởng vị Hà Nội” sẽ diễn ra từ ngày 17-21/9, tại Không gian Văn hóa sáng tạo Tây Hồ (Phố đi bộ Trịnh Công Sơn, phường Tây Hồ, Hà Nội).
  • Hà Nội triển khai quy hoạch chùa Hương và xây dựng Bảo tàng Bia Hà Nội
    UBND thành phố Hà Nội ban hành Thông báo số 585/TB-VP ngày 17-9-2025 về Kết luận của Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Mạnh Quyền tại buổi làm việc nghe báo cáo các nội dung phát triển du lịch.
Đừng bỏ lỡ
Phong tục Tết qua một số ghi chép, văn thơ cổ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO