Còn lại là những kiến trúc bửn vững của cung đình, hoà ng tộc, nhưng thời thế thay đổi là cái xây sau lại đè lên cái trước. Thà nh tựu khảo cổ Hoà ng thà nh đã chứng minh những điểm nhấn huy hoà ng. Nhưng cái còn lại, mang dấu ấn kiến trúc kẻ chợ - đô thị chỉ có thể rõ nét từ thế kỷ XIX, qua thế kỷ XX rồi XXI. Vậy là mang trên mình 3 thế kỷ, dù tính chi ly ra chỉ tròm trèm hai trăm năm.
Khi lên ngôi, nhà Nguyễn dời đô và o Phú Xuân (Huế). Mặc dù không phải là kinh đô, Hà Nội vẫn có sức sản xuất khá lớn từ các nghử thủ công, với đủ loại sản phẩm. Kinh tế hà ng hóa phát triển, nguồn thu lợi của đất Kẻ Chợ cà ng lớn. Nhà bằng gạch nhiửu hơn, kể cả nhà hai tầng, đường phố lát gạch, lát đá. Chaigneau, một sử¹ quan Pháp từng giúp vua Gia Long dựng nghiệp đã cho rằng: "Trước thế kỷ XIX Thăng Long là một trong những thà nh phố đẹp nhất châu à". Ca dao thế kỷ XIX cũng ghi:
"Phồn hoa thứ nhất Long Thà nh/Phố dăng mắc cửi, đường quanh bà n cử"
Thà nh thị hình thà nh đan xen phố xá và xóm là ng. Phố buôn bán có nhiửu nhà gạch. Sau mặt phố, thôn xóm với nhà tranh vẫn chiếm phần nhiửu, xếp đặt chưa thà nh hà ng lối rõ rệt. Hình dáng nhà đơn giản, mái là m thẳng tuột một mạch từ đòn giông đến mái hiên, vì vậy nóc rất cao, nhưng mái hiên chỉ cách mặt đất 4,5 thước (1 thước = 0,40m). Thế nên nhà có phần tối, phải trổ cửa sổ, không có bà n ghế, trải chiếu cói ngay trên nửn đất. Cũng có nhà khá giả lợp ngói hình vẩy cá, cạnh giường nghỉ có lò than sưởi ấm và tránh hơi ẩm. Luật Gia Long (1802 -1819) hà khắc ghi rõ: "Nhà ở không được xây trên nửn 2 cấp hay chồng 2 mái, không được sơn và trang trí, không quá 3 gian, 5 vì kèo".
Bảo tà ng Lịch sử Việt Nam với phong cách kiến trúc Đông Dương.
Nhìn chung kết cấu cơ bản là bộ khung gỗ truyửn thống nhiửu thế kỷ, như sợi chỉ đử thống nhất, hình thà nh kiểu nhà ống, bử rộng mặt phố chỉ và i ba mét nhưng chiửu dà i thì rất sâu, dăm bảy chục mét. Chạy từ phố nà y sang phố khác nên chúng được phân đoạn bằng nhiửu sân nhử để thông thoáng và chiếu sáng. Không gian kiến trúc độc đáo nà y được mang tên khu phố cổ Ba sáu phố phường, đang được thế giới đương đại quan tâm.
Năm 1873, thực dân Pháp tấn công Hà Nội, đến năm 1882 thì hoà n thà nh công cuộc chiếm đóng. Hà Nội tuy không phải là kinh đô nhưng là trung tâm của cả ba xứ Đông Dương là Việt Nam, Cam-pu-chia, Là o. Quy mô xây dựng mới bắt đầu từ 1888, với quy hoạch theo kiểu châu à‚u. Đường phố thẳng tắp, rộng, hai bên có vỉa hè, sông, hồ, ao, đầm lấp đi. Ngôi thà nh bị phá. Là ng xóm di chuyển theo quy hoạch mới. Nhiửu công trình, chủ yếu phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác thuộc địa, mang phong cách kiến trúc phương Tây mọc lên, là m thay đổi nhanh bộ mặt kiến trúc Hà Nội. Phong phú hơn hẳn.
Những công trình cho quân đội, công thự chính quyửn, nhà công vụ, hãng buôn, kinh doanh xây rất đa dạng. Phong cách Hy Lạp, La Mã cổ đại, cổ điển châu à‚u đua chen với nhiửu kiểu dáng, nổi bật là hệ thống cột. Barốc, Toscan, Yonich, Corintien, Roman, Gotich đủ cả. Nổi lên là Nhà thử Lớn, Nhà hát Lớn, Phủ Toà n quyửn (nay là Phủ Chủ tịch), Phủ Thống sứ (nay là Bộ LĐ-TB&XH). Tường dà y vững chắc, hà nh lang rộng, vòm cuốn nhọn hoặc bán nguyệt, mái Mansard cao, dốc đứng... thể hiện vẻ đẹp trang nghiêm và bửn vững. Tiếp đó trà o lưu Môđéc, lúc đó đang lan tửa ở châu à‚u, cũng tạo cho Hà Nội bộ mặt mới mẻ. Hiện nay, dấu vết kiến trúc nà y còn nhiửu ở phố Trà ng Tiửn, một số biệt thự đường Lý Thường Kiệt. Đáng chú ý nhất là nhà Ngân hà ng Đông Dương (nay là Ngân hà ng Quốc gia) bử thế, đĩnh đạc, hoà nh tráng nhưng không sa đà và o hệ thức chi tiết rườm rà cổ điển. Mảng biệt thự - hầu hết của người Pháp - rất đa dạng. Họ đưa và o những nét quen thuộc của nhiửu vùng quê đất Pháp: mái dốc lớn, có ống khói lò sưởi.
Nhiửu kiến trúc sư (KTS) Pháp sau một thời gian thâm nhập Việt Nam đã khai thác văn hóa bản địa, sáng tạo phong cách kiến trúc Đông Dương, đậm đà nhiửu nét à Đông. Mái dốc, có đao, có kè, có bảy, mảng trang trí chữ triện, nhiửu mái ngói nhử lô xô liên kết với nhau. Phong cách nà y có thể thấy ở các trụ sở Bảo tà ng Lịch sử, Tổng cục TDTT, báo Văn nghệ Quân đội, bốn tòa nhà 2 tầng có mái cong ở Đại học Bách khoa...
Tổng thể công trình nà y được dư luận thế giới đánh giá cao, được coi là phong phú kiến trúc Pháp nhất ở vùng châu à, có giá trị nghệ thuật cao và bửn vững. Nhiửu chuyên gia nước ngoà i đã đến nghiên cứu với những đử xuất giải pháp bảo tồn di sản.
Hầu hết những công trình lớn, tiêu biểu của giai đoạn kiến trúc nà y là của tác giả người Pháp. Trong thời kử³ nà y cũng xuất hiện một số công trình mà các KTS Việt Nam là m, với xu hướng tìm vử bản sắc dân tộc, khai thác những tinh hoa truyửn thống.
Chùa Một cột xưa
Sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miửn Bắc, Hà Nội bước và o đợt khôi phục kinh tế. Tiếp đó là kế hoạch 5 năm xây dựng CNXH. Thiếu thốn đủ thứ, khó khăn chồng chất. Thế hệ KTS đầu tiên được đà o tạo tại Trường Mử¹ thuật Đông Dương với trợ thủ - một số KTS trẻ được đà o tạo từ nước ngoà i trở vử đã tạo dựng một kiểu dáng kiến trúc đặc thù. Họ chịu ảnh hưởng cổ điển Hy Lạp, La Mã nhưng không lặp lại các hệ thống cột với nhiửu chi tiết trang trí. Vẻ hoà nh tráng ở bố cục đối xứng, phân vị ngang dọc rõ rà ng, tạo ấn tượng vử một cái đẹp giản dị, vững chắc, tiết kiệm. Có người đánh giá đây là phong cách "Tân cổ điển Việt Nam". Các công trình tiêu biểu của giai đoạn nà y là Trường Nguyễn ài Quốc (nay là Học viện Chính trị Hà nh chính quốc gia Hồ Chí Minh), trụ sở Bộ Xây dựng, các trường ĐH Thủy lợi, Nông nghiệp, Ngoại ngữ, Tổng cục Thống kê. Và không thể không nhắc đến Hội trường Ba Đình (nay đã phá dỡ để xây nhà Quốc hội mới).
Do chính sách kinh tế, quản lý xã hội, hầu như mảng xây dựng tư nhân không tồn tại. Nổi lên trong xây dựng nhà ở là tổ chức điểm dân cư đô thị, có thể gọi là theo phong cách hiện đại. Các khu tập thể Kim Liên, Nguyễn Công Trứ, Giảng Võ... ra đời thời kử³ nà y, đến nay bộc lộ nhiửu bất tiện nhưng lại là ước mơ với cư dân ngà y ấy.
Cuối thế kỷ XX, bước và o thế kỷ XXI, Hà Nội cựa mình, vươn lên mạnh mẽ. Nhà không chỉ 4, 5 tầng đơn điệu mà vút, chọc lên trời, bên dưới lại khoét sâu và o lòng đất cả và i ba tầng hầm. Những khu nhà được tổ chức liên kết với không gian đô thị. Những tổng thể xây dựng mang dáng dấp hiện đại, nổi lên hình hộp với nhiửu mảng kính. Được xếp hạng kiểu mẫu là khu đô thị Linh Đà m với cây xanh mặt nước. Có phần xa lạ là khu Ciputra, The Manor.
Đó là những thà nh tựu kiến trúc Hà Nội qua một thời kử³ lịch sử. Nhưng cũng nên điểm qua và i nét lệch lạc, "tồn tại" của nó. Ảnh hưởng của kiến trúc châu à‚u vẫn nặng nử, những chi tiết rối rắm trà n lan trên các mặt nhà , chồng chất lên những khoảng không gian chật hẹp, các căn nhà chia lô, các biệt thự nhử. Cái chóp của Nhà hát Lớn được sao chép ở công thự quốc gia và cả nhà tư nhân. Người ta quảng cáo "theo phong cách châu à‚u", mà không chịu tìm tòi phong cách Việt Nam, nhiệt đới mặc dầu chủ trương "đậm đà bản sắc dân tộc" luôn luôn được nhắc tới.
Đó đây, ở những cảnh quan thuận lợi, người ta đã dựng lên nếp nhà sà n vận chuyển từ miửn núi vử và những lửu, quán nhử, lợp lá... Dầu sao, chúng đã góp phần là m mửm mại cái khô cứng bê tông.
Trải qua những tháng năm phong kiến kìm hãm và chiến tranh, kiến trúc Việt Nam đang vươn lên dáng đứng mới. Chưa phải đã hiện đại so với bạn bè khu vực, chưa phải đã tạo dựng được đặc thù Việt Nam, nhưng rõ rà ng giới kiến trúc, với nhiửu hội thảo, bà n bạc đang đưa kiến trúc Hà Nội và o con đường tự nhiên phải đi. Một điểm đáng mừng nữa là quy hoạch xây dựng thời đổi mới đang mở ra triển vọng cho nghệ thuật kiến trúc Thủ đô, để nó ngà y cà ng là m đẹp lòng mọi người.