Những người anh hùng trên biển Đông

Bùi Tùng Ảnh| 22/08/2020 15:34

(Đọc Hùng binh, tiểu thuyết lịch sử của Đặng Ngọc Hưng, Nxb Trẻ, 2018) Đặng Ngọc Hưng - tác giả của Hùng binh thuộc thế hệ cầm bút 7X (sinh 1972). Anh từng chia sẻ chân thành: “Tôi luôn luôn nghĩ rằng, viết về lịch sử dân tộc là cách tỏ lòng biết ơn và tôn vinh công sức, trí tuệ của cha ông thiết thực nhất”.

Những người anh hùng trên biển Đông

Tiểu thuyết Hùng binh kể câu chuyện về những người dân biển bình thường nhưng vĩ đại, những người anh hùng trong ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Nhưng điều đáng nói hơn cả là, Hùng binh (trong độ dày hơn 500 trang, với bố cục 20 chương) đã tái hiện được truyền thống anh hùng của nhiều thế hệ những người dân thường đã lấy máu xương chiến đấu giữ biển đảo Tổ quốc qua nhiều thế hệ (4 đời ông - con - cháu - chắt). Đọc Hùng binh tôi lại nhớ đến bài thơ Lên Cấm Sơn (1947) của nhà thơ Thôi Hữu viết trong kháng chiến chống Pháp: “Cuộc đời gió bụi pha xương máu/ Đói rét bao lần xé thịt da/ Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/ Đâu còn tươi nữa những ngày hoa/ Lòng tôi xao xuyến tình thương xót/ Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa/ Tặng những anh tôi từng rỏ máu/ Đem thân xơ xác giữ sơn hà”.

Hai mươi chương của tiểu thuyết xoay quanh trục chính “Đội hùng binh Hoàng Sa” (cũng là tựa của chương 2). Đội hùng binh làng biển An Vĩnh (cù lao Ré) với quân số bất di bất dịch theo lệnh triều đình phải đủ 70 người hằng năm. Đội lớn ấy lại chia ra 5 đội nhỏ (phân đội), đi trên 5 chiếc ghe câu trực chỉ Hoàng Sa. Những đội hùng binh này thuộc Hải đội Hoàng Sa được thành lập và hoạt động từ rất sớm, ngay từ thời các chúa Nguyễn bắt đầu cai quản Đàng Trong. Có một thời thất tán do tao loạn lịch sử. Nhưng sau khi lên ngôi hoàng đế, thống nhất đất nước, chỉ một năm sau đó vua Gia Long đã ra chỉ dụ khôi phục và củng cố lại đội hùng binh Hoàng Sa. Năm 1820, sau khi vua Gia Long băng hà, con trai lên nối ngôi, lấy niên hiệu Minh Mạng, vua con đã tiếp tục duy trì công việc tổ chức cai quản Hoàng Sa của vua cha. Căn cứ lịch sử và pháp lý đã rõ ràng như trong bài thơ thần Nam quốc sơn hà đã viết: "Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời" (Bản dịch của Trần Trọng Kim).

Đó là cái nền lịch sử của tiểu thuyết Hùng binh. Nhưng đã là tiểu thuyết (dẫu là tiểu thuyết lịch sử) thì vẫn cần hư cấu, xây dựng kết cấu, cốt truyện, tình huống, nhân vật,... Kết cấu của Hùng binh theo phép truyền thống “tuyến tính”: câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Không thấy bóng dáng của các thủ pháp/ kỹ xảo của “hậu hiện đại” hay “dòng ý thức”. Cốt truyện nương theo các sự kiện lịch sử. Nhưng lịch sử thông qua các nhân vật có số phận cụ thể (có cá tính, thân phận, cảnh ngộ, tâm trạng, kết cục). Nhân vật của Hùng binh được mô thức hóa qua “bốn ngôi”: ông nội - con trai - cháu nội - chắt nội. Dòng họ này nhiều đời bám biển như là nghề sinh tồn.

Nhưng ngoài mưu cầu sống cho gia đình, bản thân họ còn có nghĩa vụ với triều đình, cũng là với dân với nước trong tinh thần đại nghĩa. Nếu nói có một nhân vật chính/ trung tâm thì đó là Triều. Sau khi cha đẻ mất trong chuyến đi biển theo nhiệm vụ thường niên của đội hùng binh làng An Vĩnh, sau khi ông nội đã già, Triều là trụ cột chống chèo trong gia đình nhỏ, đã đành, anh còn là người chỉ huy tiên phong của đội hùng binh mới. Không kể hết gian khổ hy sinh của đội hùng binh làng An Vĩnh (cũng như nhiều đội hùng binh khác lúc bấy giờ), tác giả tập trung miêu tả ý chí, tinh thần vượt khó, vượt khổ của những người dân miền biển bình thường nhưng ý thức công dân lại hết sức cao cả, với tinh thần “dĩ công vi thượng”. Triều là nhân vật chính được khắc họa từ nhiều phía: tình yêu gia đình, quê hương, biển cả; lòng dũng cảm, trí thông minh trong nghề biển và trong nhiệm vụ của đội hùng binh. Nếu chỉ dừng lại đó thì nhân vật này vẫn chỉ mới gợi niềm tin yêu chân thành ở người đọc. Nhưng hơn thế, anh còn là con người chính trực, dám làm và dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm.

Trong chương 18 (“Câu chuyện ở Điện Thái Hòa”) lại mở ra một cách nhìn mới của độc giả về nhân vật này - dám nói lên sự thật trước vua chúa, một việc không phải ai cũng làm được nếu chỉ bảo an, cầu hòa. Anh nói rành rẽ trước mặt vua nhưng cũng là trước bàn dân thiên hạ: “Con xin hoàng thượng thấu hiểu nỗi đau mất mát của làng An Vĩnh chúng con mà ra ân đặc xá miễn suất đội binh phu cho những người là con trưởng hoặc cháu đích tôn để các nhà đều có người sống mà nối dõi dòng giống và lo hương khói cho những người đã khuất” (trang 468). Không ít bậc quân vương ngồi trên ngai vàng trong lịch sử đã không biết hoặc cố tình không biết thành quả của xã tắc nếu có được là đánh đổi bằng xương máu của muôn dân. Cái giá của thắng lợi đâu có dễ dàng và rẻ rúng. Máu người không phải là nước lã. Hòa bình, ổn định, ấm no, hạnh phúc cho muôn dân đâu phải chỉ đổi bằng ba tấc lưỡi. Như vậy, Triều là người đã sống theo phép tắc đạo lý “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Triều hy sinh anh dũng trong chuyến đi biển thực thi nhiệm vụ của người chỉ huy đội hùng binh làng An Vĩnh cuối cùng (chương 20). Nhưng cái kết của Hùng binh thật bi tráng, lạc quan, khi đứa cháu trai nội của Triều hỏi bà nội: “Hoàng Sa là ở đâu vậy bà?”, và hỏi tiếp: “Vậy chừng nào con lớn con có ra được Hoàng Sa không hả bà?” (trang 534). Đó là một cái kết rất “mở” (vì cái kết nào cũng tỏ rõ thái độ, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn với đời sống và con người). Cái kết đúc lại, đẩy lên cao âm hưởng/cảm hứng của tiểu thuyết Hùng binh - bi tráng, lãng mạn.

Viết về truyền thống lịch sử oai hùng của cha ông là một cách “ôn cố tri tân”. Thực tiễn văn chương chứng minh sự trở lại của đề tài lịch sử trên văn đàn Việt đương đại báo hiệu tinh thần quật khởi của nghệ thuật ngôn từ khích lệ lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn năm lịch sử. Có thể nói, từ Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh (Giải A Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ nhất, 1997 - 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam), tiểu thuyết về đề tài lịch sử đang trở lại ngôi vị đáng kính của mình với sự tiếp nối nhiều tác phẩm thành công xuất hiện sau đó đến tận hôm nay như: Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Thế kỷ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam, Minh sư của Thái Bá Lợi, Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh, Đinh Tiên Hoàng của Vũ Xuân Tửu, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sỹ, Thông reo Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang, Từ Dụ thái hậu của Trần Thùy Mai, bộ ba Ngô Vương, Phùng Vương, Nam Đế Vạn Xuân của Phùng Văn Khai,...

Hùng binh của Đặng Ngọc Hưng góp thêm vào dòng tiểu thuyết lịch sử một bằng chứng sinh động về trách nhiệm công dân của nhà văn trước yêu cầu của đời sống. Lòng yêu nước không độc quyền, đó là “sợi chỉ đỏ”, là “cấu tứ” của tác phẩm của một cây bút trẻ thế hệ 7X hiện đang được xem là “chủ lực quân” của đội ngũ sáng tác hùng hậu. Lâu nay nói đến thế hệ 7X trong sáng tác văn chương/tiểu thuyết người ta hay nhắc đến Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Tiến Thụy, Trần Nhã Thụy, Uông Triều, Nguyễn Thế Hùng, Như Bình, Phong Điệp, Dili, Tống Ngọc Hân,... Ít người trong giới phê bình chịu khó đọc và tìm kiếm những gương mặt mới có cá tính như Đặng Ngọc Hưng. Tôi nghĩ, anh thuộc về “bè trầm” trong dàn nhạc giao hưởng. Hùng binh góp thêm tiếng nói bằng nghệ thuật hun đúc lòng yêu nước thương nòi cần thiết phát huy hơn bao giờ hết trong bối cảnh biển Đông đang dậy sóng.
(0) Bình luận
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Chuyện người đàn bà
    Chín năm về trước, vào khoảng chiều tối, anh phó công tố viên Py-ốt-tơ-rơ Xia-rơ-dếch và tôi ngồi xe ngựa băng qua đồng cỏ đang mùa phơi để đưa mấy lá thư từ trạm về.
  • Sau bão
    Tiếng ấm đun sôi ùng ục. Chị toan mở nắp, chợt nghe có tiếng bước chân. Lại thế. Bà Thịnh giật lấy quả trứng khỏi tay chị. Bà miết ngón trỏ lên vỏ trứng nhẵn bóng như muốn truyền vào đó một thứ nôn nóng khó tả, rồi đập vỡ bằng cái bực dọc đang hừng hực dâng lên. Chẳng ai được ăn quá hai quả trong tuần. “Mì còn dư, lại muốn trương ra rồi húp?” - bà liếc sắc lẹm, ánh nhìn như lưỡi móc câu thọc thẳng vào miệng cá.
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
  • Cuộc phiêu lưu của chì gầy
    Tôi nằm vạ vật ở quầy bán văn phòng phẩm đã lâu mà chẳng cô cậu học sinh nào đoái hoài. Lớp bụi thời gian phủ lên thân thể gầy còm khiến tôi ngứa ngáy, khó chịu. Nhìn các bạn bút chì cùng trang lứa được đón về trong niềm hân hoan, tôi “gato” lắm. Nhiều lần tôi muốn nhào ra khỏi hộp hét lớn “bút chì gầy ở đây nè!” rồi lại thất vọng khi người ta chọn mấy chị bút máy xinh đẹp, anh bút xóa vạm vỡ hay các bạn bút bi sặc sỡ.
  • Phở Đệ Nhất Thanh - Truyện ngắn của Huỳnh Trọng Khang
    Con vàng anh yếm cam nghiêng đầu rỉa cánh. Trong ánh nhập nhoạng của ngày vừa vào sáng, nhúm lông vũ bé bỏng như đốm lửa hoang dã bập bùng trong chiếc lồng treo trước nhà chú Xè.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Để Thủ đô Hà Nội hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội năm 2025
    Theo ông Phạm Hoài Nam – Trưởng Thống kê Thành phố Hà Nội, để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố năm nay, nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2025 của Hà Nội rất lớn, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi đơn vị cần tiếp tục khẩn trương, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra.
  • Triển khai dự án biến di sản thành sản phẩm du lịch văn hóa cộng đồng đặc sắc
    Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 3510/QÐ-BVHTTDL ngày 2/10/2025 về việc phê duyệt Dự án Xây dựng mô hình di sản kết nối gắn với các hành trình du lịch để phát triển cộng đồng các dân tộc thiểu số có di sản tương đồng.
  • Bài học kinh nghiệm của ngày tiếp quản Thủ đô với tiến trình phát triển lịch sử dân tộc
    PGS-TS. Nguyễn Danh Tiên và TS. Trần Thị Mỹ Hường (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) cho rằng, sự kiện Giải phóng Thủ đô 10/10 của 71 năm trước, không chỉ có ý nghĩa với lịch sử Hà Nội mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho những chặng đường tiếp theo trên hành trình xây dựng và phát triển Thành phố, tiến tới xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố văn minh, văn hiến, hiện đại, thành phố kết nối toàn cầu.
  • [Podcast] Bánh sắn Đường Lâm – Hương quê còn mãi giữa lòng Hà Nội
    Trong kho tàng ẩm thực đa sắc của Hà Nội có những món ăn với hơi thở dân dã, chân chất từ các làng quê ven đô đã chinh phục thực khách. Làng cổ Đường Lâm có những món ăn truyền thống đã tạo nên thương hiệu như tương, chè lam, kẹo dồi hay bánh tẻ…, và ở xứ Đoài, người dân còn tự hào với bánh sắn.
  • Hà Nội: Mưa lớn, mực nước các sông đang ở mức cao, nguy cơ sạt lở
    Mực nước các sông đang ở mức cao, vẫn còn tình trạng ngập úng các khu vực trũng thấp, các bãi giữa, nguy cơ sạt lở đất khu vực bờ bãi ven sông, đồi núi vùng ngoại thành như Quốc Oai, Sóc Sơn, Sơn Tây, Ba Vì, Suối Hai...
Đừng bỏ lỡ
Những người anh hùng trên biển Đông
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO