1. Còn nhớ lần đầu tiên gặp Lê Việt Hương tôi đã có ý “trách” chị “sao đang là ca sĩ lại rẽ ngang đi học đạo diễn điện ảnh?”. Lê Việt Hương chỉ cười chứ không “cãi”, vì chị đã có chủ ý khi quyết định “bỏ nghề hát” sang học nghề “hình ảnh”?
Rồi lại nhớ cũng dịp ấy khi biết chị là con gái của nhạc sĩ Lê Việt Hòa, mà ông nhạc sĩ tài hoa này rất nổi danh với hai ca khúc viết về Nghệ Tĩnh, đó là ca khúc “Gửi em chiếc nón bài thơ” và ca khúc “Gửi sông La”, lúc đó đang vui tôi bèn hỏi thật thà “Việt Hương quê ở xứ Nghệ à?”. Chẳng dè “cô sinh viên điện ảnh” này lại trả lời làm tôi thấy mình đã có gì sai sai. Chị nói “Mọi người đều tưởng em là “gấy Nghệ” chứ thực tình em là “con gái Hà thành” thiệt anh ạ”. Thì ra quê của Lê Việt Hương ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm. Nghe chị giới thiệu về quê mình như thế tôi đành chữa ngượng bằng cách nói “nịnh”: “Thảo nào hoa trái cứ sum suê”.
Mà đúng là Lê Việt Hương trong sự nghiệp cứ nở hoa kết trái sum suê thật. Nhận tấm bằng tốt nghiệp Đạo diễn Điện ảnh của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội xong là Lê Việt Hương đầu quân về Ban Văn nghệ, Đài Truyền hình Việt Nam. Hóa ra đây mới chính là “đất diễn” của chị. Quá trình làm đạo diễn chương trình ca nhạc và phim ca nhạc của Lê Việt Hương có những “thăng tiến” đến ngỡ ngàng. Năm 2012, tức là chỉ 12 năm sau khi ra trường, đạo diễn Lê Việt Hương đã được phong danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Và chỉ 7 năm sau, năm 2019, chị đã là Nghệ sĩ Nhân dân. Những danh hiệu mà chị đạt được khiến bạn đồng lớp phải nể phục.
Vốn học khoa Nhạc cụ truyền thống ở Nhạc viện Hà Nội nhưng Việt Hương lại “rẽ ngang” sang làm ca sĩ của Nhà hát Ca múa nhạc trung ương. Lần rẽ ngang thứ hai thì như đã nói, chị chuyển sang làm đạo diễn ca nhạc của Đài Truyền hình Việt Nam. Hồi đó, tức là đầu những năm 2000 trở về trước, các chương trình ca nhạc phát trên truyền hình thường được sản xuất theo kiểu bài nối bài. Đạo diễn chỉ cần cùng biên tập chọn bài hát, mời ca sĩ vào trường quay hay ra ngoại cảnh một chút là đã xong một chương trình 30 phút.
Những chương trình như thế “đụng” phải “sự lên ngôi” của các video ca nhạc bán nhan nhản ngoài phố hay như hiện nay là YouTube, muốn xem thì mua băng về hay lên mạng tải về, tha hồ nghe “đến chán thì thôi”. Điều đó khiến khán giả xa dần với chương trình ca nhạc trên truyền hình. Vậy là phải nghĩ. Nghĩ và làm thế nào để các chương trình ca nhạc trên truyền hình “giữ” được người xem? Dĩ nhiên là phải đổi mới cách làm rồi.
2. Có thể nói, đạo diễn, NSND Việt Hương là một trong những người đầu tiên áp dụng thành công ngôn ngữ điện ảnh vào phim ca nhạc. Những bộ phim ca nhạc do chị làm đạo diễn được phát trên sóng truyền hình Việt Nam không chỉ làm thay đổi diện mạo mà còn góp phần nâng cao về chất các chương trình ca nhạc truyền hình.
Và khán giả đã đón nhận những tác phẩm của chị, bởi phim ca nhạc không chỉ cho người xem được thưởng thức các bài hát hay, mà còn được hiểu kỹ hơn về câu chuyện từ mỗi bài ca. Không gian hình ảnh tạo cho không gian âm thanh cất cánh, khán giả cảm nhận sâu sắc hơn, rung động hơn.
Tôi ấn tượng khi xem những phim ca nhạc do Việt Hương làm đạo diễn, như phim “Cây đàn Điện Biên” hay “Khát vọng bình yên”. Ở đó, ta thấy vẫn những bài hát quen thuộc nhưng với cách xây dựng kịch bản và thể hiện theo ngôn ngữ điện ảnh khiến con tim khán giả phải rung lên cảm phục chen thương cảm. Không chỉ lay động tâm hồn mà còn lấy đi nước mắt của khán giả, không chỉ là khúc tráng ca bất tử mà còn là sự “miêu tả” chân thực về những năm tháng chiến tranh của quân và dân ta, phim đã đưa người xem vào “mê cung” của giai điệu cùng sự liên tưởng về những tháng năm hào hùng. Người xem phim ca nhạc này thấy ở đó sự bi hùng, nhưng vẫn thấy sự lãng mạn.
Tôi ấn tượng mãi khi xem bộ phim ca nhạc “Vọng nguyệt”. Đây là phim ca nhạc cổ trang với điển tích “Chàng chưa thi đỗ thì chưa động phòng”. Phim ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Cô gái xinh đẹp tần tảo nuôi chồng ăn học, ở nhà chăm mẹ chồng và ngày ngày ngóng đợi chàng thành đạt trở về...
3. Nói đến Việt Hương là người ta nghĩ ngay chị thành công với phim ca nhạc, nhưng NSND Việt Hương cũng khá thành công với mảng phim tài liệu. Những phim tài liệu như “Người viết cảm tử quân”, “Thuở bình minh tân nhạc” hay “Tiếng đàn xưa”... đã đem về cho chị giải Vàng, giải Bạc của Liên hoan phim Việt Nam, của Cục Điện ảnh, của Giải Cánh diều và Liên hoan Truyền hình toàn quốc .
Chợt nhớ câu nói của Việt Hương ngày chị mới nhập trường: “Tôi không bỏ âm nhạc nhưng sẽ làm âm nhạc theo cách của mình”. Và cái cách “của mình” như Việt Hương đã nói chắc không gì khác là chị luôn “phiêu” cùng âm nhạc.
Giờ thì NSND Lê Việt Hương đã “về” Hà Nội sau những năm tháng đóng góp cho các chương trình ca nhạc của Đài Truyền hình Việt Nam. Đảm nhiệm vai trò Phó Chủ tịch Hội Điện ảnh Hà Nội cũng là một bước “rẽ ngang” lần thứ ba của chị. Ở vị trí này, lẽ đương nhiên thì chị cùng tập thể Ban chấp hành và các hội viên của Hội Điện ảnh Hà Nội phải làm rất nhiều việc. Là người có uy tín trong giới điện ảnh và năng lực sáng tạo, hy vọng chị có nhiều đóng góp để Điện ảnh Thủ đô xứng tầm với vị thế của mình.
NSND Lê Việt Hương tâm sự về những dự định của mình: “Sáng qua tôi vừa dự Hội thảo “Văn học nghệ thuật với phát triển văn hóa du lịch Thủ đô”. Có rất nhiều ý kiến gợi mở và tôi coi đó là động lực, là mục tiêu cho công tác hội của mình”.
Chị còn nói thêm: “Kinh nghiệm là vốn quý, mà cái đó thì mình đã có. Quan trọng là tấm lòng và sự cố gắng”. Nghe chị nói thế, tôi chợt nhớ đến những bộ phim mà chị đã làm, đó là những phim đậm chất văn hóa dân tộc Việt, hình ảnh lại lãng mạn, giàu chất thơ như đang dẫn dụ ta lạc tới miền cực lạc, với bối cảnh hoặc là khu danh thắng Tràng An - Bích Động hoặc là những làng quê Việt Nam, những địa danh trên đất Thăng Long - Hà Nội.
Văn học nghệ thuật đồng hành, gắn kết với phát triển văn hóa du lịch Thủ đô là đấy chứ đâu.
Trong suốt thời gian hoạt động nghệ thuật của mình, NSND Việt Hương đã được trao nhiều giải thưởng: Cánh diều Vàng với phim tài liệu nghệ thuật “Thuở bình minh tân nhạc” (2010); Huy chương Vàng với phim ca nhạc “Khát vọng xanh” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2006; Huy chương Vàng với chương trình ca nhạc “Sóng đôi” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2009; Huy chương Vàng với phim ca nhạc “Mây xa” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2011; Huy chương Vàng phim ca nhạc “Gần lắm Trường Sa” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2012; Giải Video clip xuất sắc "VTV Bài hát tôi yêu" (2005)...