Nghệ sĩ nhân dân Lê Việt Hương: Cháy hết mình vì nghệ thuật

Hanoimoi| 24/07/2022 18:31

Gặp Nghệ sĩ nhân dân (NSND) Lê Việt Hương sau khi Đại hội lần thứ 6 Hội Điện ảnh Hà Nội kết thúc, tôi chúc mừng chị được bầu vào Ban Chấp hành và rồi "trúng" luôn chức Phó Chủ tịch Hội. NSND Lê Việt Hương cười, ý chừng như chị không “dám” nhận lời khen. Chị nói: “Chắc là mọi người quý nên mới được thế. Chứ làm gì có dự kiến”.

Nghệ sĩ nhân dân Lê Việt Hương: Cháy hết mình vì nghệ thuật
Đạo diễn Việt Hương nhận giải Cánh diều vàng năm 2009.

1. Còn nhớ lần đầu tiên gặp Lê Việt Hương tôi đã có ý “trách” chị “sao đang là ca sĩ lại rẽ ngang đi học đạo diễn điện ảnh?”. Lê Việt Hương chỉ cười chứ không “cãi”, vì chị đã có chủ ý khi quyết định “bỏ nghề hát” sang học nghề “hình ảnh”?

Rồi lại nhớ cũng dịp ấy khi biết chị là con gái của nhạc sĩ Lê Việt Hòa, mà ông nhạc sĩ tài hoa này rất nổi danh với hai ca khúc viết về Nghệ Tĩnh, đó là ca khúc “Gửi em chiếc nón bài thơ” và ca khúc “Gửi sông La”, lúc đó đang vui tôi bèn hỏi thật thà “Việt Hương quê ở xứ Nghệ à?”. Chẳng dè “cô sinh viên điện ảnh” này lại trả lời làm tôi thấy mình đã có gì sai sai. Chị nói “Mọi người đều tưởng em là “gấy Nghệ” chứ thực tình em là “con gái Hà thành” thiệt anh ạ”. Thì ra quê của Lê Việt Hương ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm. Nghe chị giới thiệu về quê mình như thế tôi đành chữa ngượng bằng cách nói “nịnh”: “Thảo nào hoa trái cứ sum suê”.

Mà đúng là Lê Việt Hương trong sự nghiệp cứ nở hoa kết trái sum suê thật. Nhận tấm bằng tốt nghiệp Đạo diễn Điện ảnh của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội xong là Lê Việt Hương đầu quân về Ban Văn nghệ, Đài Truyền hình Việt Nam. Hóa ra đây mới chính là “đất diễn” của chị. Quá trình làm đạo diễn chương trình ca nhạc và phim ca nhạc của Lê Việt Hương có những “thăng tiến” đến ngỡ ngàng. Năm 2012, tức là chỉ 12 năm sau khi ra trường, đạo diễn Lê Việt Hương đã được phong danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Và chỉ 7 năm sau, năm 2019, chị đã là Nghệ sĩ Nhân dân. Những danh hiệu mà chị đạt được khiến bạn đồng lớp phải nể phục.

Vốn học khoa Nhạc cụ truyền thống ở Nhạc viện Hà Nội nhưng Việt Hương lại “rẽ ngang” sang làm ca sĩ của Nhà hát Ca múa nhạc trung ương. Lần rẽ ngang thứ hai thì như đã nói, chị chuyển sang làm đạo diễn ca nhạc của Đài Truyền hình Việt Nam. Hồi đó, tức là đầu những năm 2000 trở về trước, các chương trình ca nhạc phát trên truyền hình thường được sản xuất theo kiểu bài nối bài. Đạo diễn chỉ cần cùng biên tập chọn bài hát, mời ca sĩ vào trường quay hay ra ngoại cảnh một chút là đã xong một chương trình 30 phút.

Những chương trình như thế “đụng” phải “sự lên ngôi” của các video ca nhạc bán nhan nhản ngoài phố hay như hiện nay là YouTube, muốn xem thì mua băng về hay lên mạng tải về, tha hồ nghe “đến chán thì thôi”. Điều đó khiến khán giả xa dần với chương trình ca nhạc trên truyền hình. Vậy là phải nghĩ. Nghĩ và làm thế nào để các chương trình ca nhạc trên truyền hình “giữ” được người xem? Dĩ nhiên là phải đổi mới cách làm rồi.

2. Có thể nói, đạo diễn, NSND Việt Hương là một trong những người đầu tiên áp dụng thành công ngôn ngữ điện ảnh vào phim ca nhạc. Những bộ phim ca nhạc do chị làm đạo diễn được phát trên sóng truyền hình Việt Nam không chỉ làm thay đổi diện mạo mà còn góp phần nâng cao về chất các chương trình ca nhạc truyền hình.

Và khán giả đã đón nhận những tác phẩm của chị, bởi phim ca nhạc không chỉ cho người xem được thưởng thức các bài hát hay, mà còn được hiểu kỹ hơn về câu chuyện từ mỗi bài ca. Không gian hình ảnh tạo cho không gian âm thanh cất cánh, khán giả cảm nhận sâu sắc hơn, rung động hơn.

Tôi ấn tượng khi xem những phim ca nhạc do Việt Hương làm đạo diễn, như phim “Cây đàn Điện Biên” hay “Khát vọng bình yên”. Ở đó, ta thấy vẫn những bài hát quen thuộc nhưng với cách xây dựng kịch bản và thể hiện theo ngôn ngữ điện ảnh khiến con tim khán giả phải rung lên cảm phục chen thương cảm. Không chỉ lay động tâm hồn mà còn lấy đi nước mắt của khán giả, không chỉ là khúc tráng ca bất tử mà còn là sự “miêu tả” chân thực về những năm tháng chiến tranh của quân và dân ta, phim đã đưa người xem vào “mê cung” của giai điệu cùng sự liên tưởng về những tháng năm hào hùng. Người xem phim ca nhạc này thấy ở đó sự bi hùng, nhưng vẫn thấy sự lãng mạn.

Tôi ấn tượng mãi khi xem bộ phim ca nhạc “Vọng nguyệt”. Đây là phim ca nhạc cổ trang với điển tích “Chàng chưa thi đỗ thì chưa động phòng”. Phim ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Cô gái xinh đẹp tần tảo nuôi chồng ăn học, ở nhà chăm mẹ chồng và ngày ngày ngóng đợi chàng thành đạt trở về...

Nghệ sĩ nhân dân Lê Việt Hương: Cháy hết mình vì nghệ thuật
Một cảnh trong phim ca nhạc của đạo diễn Việt Hương.

3. Nói đến Việt Hương là người ta nghĩ ngay chị thành công với phim ca nhạc, nhưng NSND Việt Hương cũng khá thành công với mảng phim tài liệu. Những phim tài liệu như “Người viết cảm tử quân”, “Thuở bình minh tân nhạc” hay “Tiếng đàn xưa”... đã đem về cho chị giải Vàng, giải Bạc của Liên hoan phim Việt Nam, của Cục Điện ảnh, của Giải Cánh diều và Liên hoan Truyền hình toàn quốc .

Chợt nhớ câu nói của Việt Hương ngày chị mới nhập trường: “Tôi không bỏ âm nhạc nhưng sẽ làm âm nhạc theo cách của mình”. Và cái cách “của mình” như Việt Hương đã nói chắc không gì khác là chị luôn “phiêu” cùng âm nhạc.

Giờ thì NSND Lê Việt Hương đã “về” Hà Nội sau những năm tháng đóng góp cho các chương trình ca nhạc của Đài Truyền hình Việt Nam. Đảm nhiệm vai trò Phó Chủ tịch Hội Điện ảnh Hà Nội cũng là một bước “rẽ ngang” lần thứ ba của chị. Ở vị trí này, lẽ đương nhiên thì chị cùng tập thể Ban chấp hành và các hội viên của Hội Điện ảnh Hà Nội phải làm rất nhiều việc. Là người có uy tín trong giới điện ảnh và năng lực sáng tạo, hy vọng chị có nhiều đóng góp để Điện ảnh Thủ đô xứng tầm với vị thế của mình.

NSND Lê Việt Hương tâm sự về những dự định của mình: “Sáng qua tôi vừa dự Hội thảo “Văn học nghệ thuật với phát triển văn hóa du lịch Thủ đô”. Có rất nhiều ý kiến gợi mở và tôi coi đó là động lực, là mục tiêu cho công tác hội của mình”.

Chị còn nói thêm: “Kinh nghiệm là vốn quý, mà cái đó thì mình đã có. Quan trọng là tấm lòng và sự cố gắng”. Nghe chị nói thế, tôi chợt nhớ đến những bộ phim mà chị đã làm, đó là những phim đậm chất văn hóa dân tộc Việt, hình ảnh lại lãng mạn, giàu chất thơ như đang dẫn dụ ta lạc tới miền cực lạc, với bối cảnh hoặc là khu danh thắng Tràng An - Bích Động hoặc là những làng quê Việt Nam, những địa danh trên đất Thăng Long - Hà Nội.

Văn học nghệ thuật đồng hành, gắn kết với phát triển văn hóa du lịch Thủ đô là đấy chứ đâu.

Trong suốt thời gian hoạt động nghệ thuật của mình, NSND Việt Hương đã được trao nhiều giải thưởng: Cánh diều Vàng với phim tài liệu nghệ thuật “Thuở bình minh tân nhạc” (2010); Huy chương Vàng với phim ca nhạc “Khát vọng xanh” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2006; Huy chương Vàng với chương trình ca nhạc “Sóng đôi” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2009; Huy chương Vàng với phim ca nhạc “Mây xa” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2011; Huy chương Vàng phim ca nhạc “Gần lắm Trường Sa” - Liên hoan Truyền hình toàn quốc 2012; Giải Video clip xuất sắc "VTV Bài hát tôi yêu" (2005)...

(0) Bình luận
  • Nhà văn Hoàng Quốc Hải: “Một nhà văn đúng nghĩa phải đồng thời là một nhà văn hóa”
    Nhà văn Hoàng Quốc Hải sinh năm 1938 tại Hải Dương là một trong những cây bút tên tuổi của văn học Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử. Trước khi chuyên tâm sáng tác, ông từng là phóng viên báo Vùng mỏ (nay là báo Quảng Ninh), rồi làm biên tập viên tập Sáng tác Hà Nội - tiền thân của tạp chí Người Hà Nội. Với sự nghiệp trải dài hơn nửa thế kỷ, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm qua hai bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tám triều vua Lý” và “Bão táp triều Trần”. Những tác phẩm này không chỉ tái hiện chân thực lịch sử dân tộc mà còn thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với Hà Nội - mảnh đất nghìn năm văn hiến. Hãy cùng lắng nghe nhà văn chia sẻ về hành trình sáng tác, những trăn trở về đề tài lịch sử và lời nhắn gửi tâm huyết đến thế hệ trẻ yêu nghề viết.
  • Nhà văn Tô Hoài: Người “thuyền trưởng” tâm huyết và bản lĩnh
    Trong chặng đường 40 năm của Tạp chí Người Hà Nội, dấu ấn của nhà văn Tô Hoài - Tổng Biên tập đầu tiên vẫn luôn hiện hữu sâu đậm. Không chỉ là người đặt nền móng, định hướng phát triển cho tờ báo, ông còn là người truyền cảm hứng về một cách làm báo cẩn trọng, tinh tế, nhân văn và tràn đầy trách nhiệm.
  • Người Hà Nội trong tôi
    Suốt hành trình 40 năm xây dựng và phát triển, Người Hà Nội luôn nhận được sự đồng hành, đóng góp các cây bút thuộc nhiều thế hệ, trong và ngoài nước, từ chuyên nghiệp đến không chuyên. Qua mỗi bài viết, họ đã mang đến những góc nhìn, cảm xúc mới mẻ góp phần gìn giữ bản sắc riêng của tạp chí. Dưới đây là những chia sẻ chân thành của một số cộng tác viên về kỷ niệm và sự gắn bó sâu sắc mà họ dành cho tạp chí Người Hà Nội trong suốt những năm qua.
  • Vài kỉ niệm với tập “Sáng tác Hà Nội”
    Chi hội Văn nghệ Hà Nội (sau là Hội Văn nghệ Hà Nội - tiền thân của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội) được thành lập vào tháng 10 năm 1966.
  • Người Hà Nội - 40 năm đồng hành với văn nghệ sĩ Thủ đô
    Tạp chí Người Hà Nội tiền thân là ấn phẩm Sáng tác Hà Nội do Chi hội Văn nghệ Hà Nội (nay là Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội) phát hành từ năm 1967. Ngay từ thuở ban đầu, ấn phẩm là một diễn đàn nhỏ nhưng có sức sống mạnh mẽ, nhanh chóng trở thành nơi quy tụ các sáng tác của văn nghệ sĩ Hà Nội.
  • "Người Hà Nội" đã và đang làm tốt sứ mệnh lan tỏa văn hóa Thủ đô ngàn năm văn hiến
    "Người Hà Nội" sẽ mừng "sinh nhật" tuổi 40 vào ngày 8/5/2025. Chặng đường 40 năm xây dựng và phát triển, Người Hà Nội đã có được một “hệ thống” cộng tác viên là văn nghệ sỹ ở nhiều lĩnh vực: văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, lý luận phê bình;… các nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà khoa học hàng đầu Thủ đô và cả nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô
    Sáng 4/12, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Diễn xướng dân gian trong lễ hội Hà Nội: Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Đan Phượng”. Qua phần trình bày của nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, họa sĩ Giang Nguyên Thái và Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên, những giá trị lịch sử, đặc trưng nghệ thuật và hành trình bảo tồn, phát huy của hai loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này đã được làm sáng rõ.
  • Bài 4: Nguồn nhân lực văn hóa nghệ thuật - “lực lượng tiên phong” chấn hưng văn hóa
    Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh mà còn là động lực và hệ điều tiết phát triển bền vững. Đặt con người vào trung tâm, Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu “chăm lo đội ngũ văn nghệ sĩ” và “ưu tiên phát triển các cơ sở đào tạo văn hóa, nghệ thuật”... Đây không chỉ là bổ sung nhiệm vụ mà là sự tái định vị vai trò của văn học nghệ thuật trong phát triển văn hóa.
  • Đưa làng nghề Hà Nội thành trụ cột phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô
    Thành phố Hà Nội là “đất trăm nghề” và các làng nghề có bề dày lịch sử, số lượng nghề và làng nghề lớn nhất cả nước. Do đó, việc HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI vừa thông qua Nghị quyết về chính sách hỗ trợ bảo tồn, phát triển làng nghề và ngành nghề nông thôn trên địa bàn Hà Nội là cơ sở quan trọng, trụ cột để phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô trong kỷ nguyên mới.
  • MV “Gió” - Wean và marzuz hợp tác nghệ thuật kết nối giá trị bền vững
    Ca khúc “GIÓ” của WEAN và marzuz chính thức ra mắt, mở đầu cho chiến dịch “Nhấn kết nối – Bật thay đổi” thuộc sáng kiến Cửa ngõ Toàn cầu của Liên minh châu Âu, truyền tải thông điệp về tinh thần đổi mới và kết nối của giới trẻ Việt Nam vì một tương lai bền vững.
  • Phát hành sách ảnh song ngữ Việt - Anh “80 năm Quốc hội Việt Nam”
    Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên (6/1/1946-6/1/2026), thực hiện chỉ đạo của Văn phòng Quốc hội và Thông tấn xã Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tấn phối hợp với Vụ Thông tin và Thư viện thuộc Văn phòng Quốc hội tổ chức biên soạn, xuất bản cuốn sách ảnh song ngữ Việt - Anh “80 năm Quốc hội Việt Nam (1946-2026)”.
Đừng bỏ lỡ
Nghệ sĩ nhân dân Lê Việt Hương: Cháy hết mình vì nghệ thuật
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO