Việt Nam là một nước nông nghiệp lúa nước. Cái ăn chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp lúa gạo, ngô khoai, các loại rau, các loại cá tôm, thịt gia cầm, gia súc. Vậy, người Việt quan niệm, nói về cái ăn như thế nào? Các cụ xưa thường nói: “Dĩ thực vi tiên” (Coi ăn làm đầu), “Dĩ thực vi thiên” (Coi ăn bằng trời) hay “Có thực mới vực được đạo” (Có ăn thì mới làm được chuyện đạo).
Cái ăn của người Việt chủ yếu là cơm, cơm gạo tẻ.
- Đói thì thèm thịt thèm xôi
Đã no cơm tẻ thì thôi mọi đằng
- Cơm tẻ mẹ ruột.
- Cơm tẻ no xôi vò chẳng thiết
Mơ ước của con người là được ăn cơm no với cá:
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy bát cơm đầy
Lấy khúc cá to
(Đồng dao)
Để đánh lừa khói, nói cho khói về hướng khác trẻ em hát:
Khói về đằng kia ăn cơm với cá
Khói về đằng này liếm lá, gặm xương
(Đồng dao)
Thế nhưng mọi người sẵn sàng chịu đói, sẵn sàng ăn những thứ quả khác để thực hiện lòng hiếu thảo, hay thực hiện hình thức hôn nhân một vợ một chồng:
- Đói lòng ăn hạt chà là
Dành cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
- Đói lòng ăn trái cây sung
Chồng một thì lấy chồng chung
thì đừng
Điều đáng trân trọng là con người không thể “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Người ta cố gắng là sao để “Đói cho sạch, rách cho thơm”.
Trong hoàn cảnh lương thực thiếu thốn thì muốn no chỉ có cách ăn cơm tấm, muốn ấm, chỉ có cách nằm ổ rơm: “No cơm tấm, ấm ổ rơm”
Người ta cũng thấy rất rõ rằng cái ăn có thể làm mất thể diện, thành xấu xa, chịu ràng buộc: “Miếng ăn là miếng nhục”, “Miếng ăn quá khẩu thành tàn”, “Cơm ăn vào dạ là vạ vào thân”.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến - người đã đỗ đầu ba kì thi (Tam nguyên), từng làm chức Tổng đốc Sơn Tây, nhưng khi về già cảm xúc trước người hàng xóm cho thịt, đã làm bài thơ chữ Hán là “Tặng nhục”. Thịt chữ Hán là nhục. Cho thịt tức là cho nhục. Mấy câu thật cảm khái:
Không ăn thì sẽ đói
Ăn vào thì lại nhục
Không ăn, người sẽ gầy
Ăn vào người hóa tục
(Thơ văn Nguyễn Khuyến,
Nxb Văn học, 1971)
Thi sĩ Xuân Diệu cũng từng viết:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ
Các nhà thơ Việt Nam hiện đại sau này cũng đều vất vả vì cái ăn, vì thơ ca:
Thơ ơi ta bảo thơ này
Để ta đi cấy đi cày nuôi thơ
(Nguyễn Duy)
Phạc phờ chạy gạo từng lon
Nuôi thơ, nuôi vợ, nuôi con, nuôi mình
(Trần Ngọc Tuấn)
Ăn tuy không nhiều mỗi ngày, nhưng ăn mà không làm thì của cải có như núi cũng không đủ: “Miệng ăn núi lở”, “Của như non, ăn mòn cũng hết”. Hầu như cuộc sống đói khổ triền miên đã làm cho con người ao ước có một lần được no đủ trong đời:
Đừng có chết mất thì thôi
Sống cũng có lúc no xôi chán chè
Người ta ao ước đời sống no đủ cũng chỉ ước đến mức “Cơm gà cá gỏi”, “Cơm bưng nước rót”.
Trong thực đơn bữa ăn của người xưa, thành phần chất xơ quan trọng là rau. Rau cũng rất đa dạng, nào rau muống, rau cải, rau dền, rau bí, rau lang, rau đay; có rau hỗn hợp cả ba bốn loại rau là tập tàng; và có rất nhiều các loại quả cũng được tính là rau như: bầu, bí, cà, su su, mướp,…
- Cơm không rau như đau không thuốc
- Cơm không rau như nhà giàu
chết không kèn trống
Ngoài việc ăn thức ăn chính là cơm, ăn thành bữa, người xưa cũng chú ý đến những món ăn phụ đó là quà. Quà có thể là bánh đa, bánh đúc, bún, bỏng ngô, khoai, sắn, các loại chè đỗ đen, chè bười, chè hạt sen… giản dị mà ngon.
Đánh chết cái nết không chừa
Đi chợ vẫn cứ cùi dừa bánh đa
Khi cuộc sống khá hơn, người Việt không nghĩ đến chuyện “ăn no mặc ấm” nữa mà nghĩ đến chuyện “ăn ngon, mặc đẹp”. Thực phẩm hải sản, thủy sản, nông sản sẵn; các loại gia vị nhiều; những bàn tay vàng về chế biến, nấu nướng không hiếm... bởi thế người Việt Nam đã tạo ra các món ăn ngon nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới biết tới như: nem rán, phở, bánh mì kẹp thịt…
Tĩnh vật Mùa xuân. Tranh của Lê Huy Quang
Những tinh túy của món ăn Việt cũng đã đi vào nhiều trang văn của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Trong “Hà Nội băm sáu phố phường”, Thạch Lam dành nhiều trang viết về các thức quà Hà Nội. Nguyễn Tuân viết về phở, chả quế,… cũng không kém phần thú vị. Trong “Miếng ngon Hà Nội”, nhà văn Vũ Bằng đã thốt lên đầy cảm khái: “Hà Nội… ngon… quá xá! Hà Nội ngon không chỉ vì những miếng ngon đặc biệt, nhưng ngon từ cách ăn uống ngon đi, ngon từ cách ngon rao hàng quà ngon xuống, ngon từ cách ngon trình bày ngon tới, ngon từ cách thái miếng thịt, chia miếng bánh ngon lui”. Giáo sư Phan Ngọc, trong công trình “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới” thì viết: “Món ăn Bắc là vua chúa hóa món ăn Tày; món ăn Huế là đế vương hóa món ăn Mường. Có một sự sành ăn Việt Nam cần giới thiệu với cả thế giới”.
Người Việt đối xử với cái ăn, cũng là đối xử theo cách văn hóa, cả về thức ăn lẫn cách ăn. Đó chẳng phải là điều đáng tự hào hay sao!