Một góc khu tập thể Nguyễn Công Trứ (Hà Nội). Ảnh: Khánh Nguyên |
Với phương pháp điửu tra là phát phiếu cho 4 nhóm đối tượng gồm chuyên gia - kiến trúc sư, cơ quan quản lý, sinh viên chuyên ngà nh kiến trúc và người dân, trên cơ sở các tiêu chí giá trị văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, quy hoạch cảnh quan, tính nguyên bản, công năng sử dụng và tính đại diện cho nhóm công trình, nhiửu khu tập thể cũ như Kim Liên, Nguyễn Công Trứ, Thọ Lão, Quử³nh Lôi, Văn Chương (giai đoạn 1954-1965), Trương Định, Trung Tự, Giảng Võ (1965-1986) được đử xuất là công trình di sản "đáng chú ý", chỉ xếp sau những công trình nhóm "đặc biệt".
Theo nhóm tác giả đử tà i (gồm nhiửu chuyên gia có uy tín của Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội, Sở Quy hoạch - Kiến trúc), ở giai đoạn 1954-1965, nếu khu tập thể Hà m Tử Quan có đặc điểm là là m bằng gỗ, thứ vật liệu dễ tìm thời đó, với khu phụ, bể nước, chậu rửa, bà n giặt bằng gạch xây, niên hạn sử dụng tạm thời thì khu tập thể Kim Liên là khu nhà ở đầu tiên được bố trí theo hình thức tiểu khu, có nhóm nhà , có hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, sân vận động, cửa hà ng bách hóa. Nhà được xây cao tầng, bố cục chạy dà i và song song.
Sau đó tập thể Nguyễn Công Trứ cũng được xây dựng hoà n chỉnh theo hình mẫu nà y, có trường mẫu giáo, nhà trẻ, có cửa hà ng bách hóa với mặt chính quay ra đường Nguyễn Công Trứ, mặt quay và o trong là nhà ăn, cửa hà ng giải khát. Giữa các khối nhà có cây xanh, sân chơi cùng hạ tầng hoà n chỉnh. Khu Văn Chương được thiết kế bởi những nhóm nhà 2 tầng mái ngói, khu phụ tập trung; kết hợp nhà 5 tầng bố trí theo tuyến đường bao bên ngoà i, dưới có cửa hà ng. Trong khu cũng có đủ trường học, nhà trẻ, mẫu giáo.
Đến giai đoạn 1965-1986, Hà Nội bắt đầu phát triển các kiểu nhà lắp ghép đơn giản. Mẫu nhà ở 2 tầng lắp ghép tấm lớn độn vật liệu xỉ, xây dựng thí điểm năm 1971-1972 tại Trương Định, Yên Lãng. Sau đó các mẫu nhà lắp ghép tấm lớn 5 tầng có nhiửu ưu điểm hơn, được triển khai hà ng loạt tại Trung Tự, Khương Thượng, Giảng Võ, Vĩnh Hồ... Công trình có kiến trúc tốt hơn cả trong thời điểm nà y (năm 1967) là khu nhà ở Ngoại giao đoà n Vạn Phúc của các KTS Nguyễn Trực Luyện, Nguyễn Kim, Nguyễn Văn Oanh được xếp và o nhóm nhà ở có giá trị "đặc biệt". Điểm đáng chú ý là kiến trúc nhà ở đã phản ánh rất sát điửu kiện kinh tế xã hội mỗi thời kử³.
Ban đầu từ mô hình 2 nhà chung một khu phụ, thiết kế nhà ở xây xong phải dễ phân phối, trước mắt và lâu dà i đửu phù hợp, vật liệu xây dựng phải tiết kiệm (cửa không có khuôn)... Sau nà y, diện tích ở bình quân tăng 4-6m2/người, cùng với đó là tăng diện tích phụ, rồi chuyển đổi từ dùng chung sang ngăn chia, khép kín...
Theo KTS Đà o Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội, trước đây đã có nhiửu nghiên cứu vử kiến trúc truyửn thống hay kiến trúc Pháp, kiến trúc hiện đại nhưng thiếu hẳn nghiên cứu vử kiến trúc giai đoạn 1954-1986 là giai đoạn phát triển từ đô thị tiêu dùng, đô thị thuộc địa sang đô thị XHCN; là thời kử³ Nhà nước bao cấp xây dựng, cũng là thời kử³ có nhiửu công trình do các nước XHCN giúp đỡ thiết kế cùng với đội ngũ kiến trúc sư trong nước đã tạo được dấu ấn đặc thù cho nửn kiến trúc Việt Nam. Thậm chí, nhiửu công trình còn vượt khửi giá trị vử mặt vật chất, khẳng định giá trị tinh thần là ước mơ, là sự phấn đấu, là niửm kiêu hãnh của một thế hệ.
Ngà y nay, cùng với thời gian, các công trình nà y đang đứng trước sự lựa chọn và thách thức là được cải tạo, hoà n thiện hoặc phá bử xây dựng mới. Việc lựa chọn giải pháp thường chủ yếu dựa trên yếu tố quy mô, sự xuống cấp, độ nguy hiểm, còn những yếu tố giá trị phi vật thể, giá trị văn hóa dường như không được xem xét. Do vậy, cần nhanh chóng có quy chế bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di sản kiến trúc đối với những công trình tiêu biểu cho một thời kử³ phát triển của đất nước.