Họa sĩ Dân Quốc - Người thiết tạo không gian chèo “Sắc sắc không không”
“Sắc sắc không không” (có mà không, không mà có) là một trong những triết lý căn bản của giáo lý đạo Phật. Triết lý này tưởng chừng mơ hồ, nhưng ở góc nhìn, tầm nhìn và cách nhìn khoa học biện chứng thì hoàn toàn đúng với ý nghĩa vật chất của nó. Dường như họa sĩ thiết kế mỹ thuật sân khấu chèo Nguyễn Dân Quốc cũng đã lấy triết lý này làm phương châm cho sáng tạo của mình.
NSND Nguyễn Dân Quốc sinh năm 1943 ở phố Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, trong một gia đình có truyền thống văn hóa. Ngoài 20 tuổi, chàng trai Dân Quốc được vinh hạnh “hầu trà” theo kiểu người Hà Nội, để tiếp nhận tri thức từ các thầy, mà Dân Quốc gọi là “hóng học”. Mọi sự tích lũy, kể cả vốn sống về đời cũ và đời mới đã làm nên một họa sĩ thiết kế mỹ thuật chèo tài năng Nguyễn Dân Quốc. Chính ông đã lấy nghệ thuật chèo làm vũ khí, với tâm tuệ trong sáng, tinh, khí, thần dân tộc soi rọi vào hiện thực mới - hiện thực đương đại, để phản ánh trong những tác phẩm thiết kế mỹ thuật của mình cho những vở diễn chèo.
Tác phẩm thiết kế mỹ thuật đầu tiên của họa sĩ Dân Quốc cho vở diễn chèo về hiện thực cách mạng và kháng chiến của Đoàn chèo Hà Tây là vở chèo “Chị Tâm bến Cốc” (1968), kịch bản của cố NSND Tào Mạt. Kể từ tác phẩm mỹ thuật chèo đầu tiên này, họa sĩ Dân Quốc đã thiết kế mỹ thuật cho hơn 120 vở diễn chèo của các nhà hát và các đoàn chèo trong cả nước, trong đó có đến ¼ số vở diễn được chuyển thể từ kịch bản nước ngoài. Nổi trội trong số ấy là vở diễn “Vòng phấn Capcadơ”, kịch bản của Bertolt Brecht Brecht, Vinh Mậu chuyển thể chèo.
Các sáng tác của họa sĩ Dân Quốc vừa giàu chất dân gian, mộc mạc, giản dị, tinh tế và trang nhã, vừa mang vẻ đẹp đầy chất thơ, thấm đẫm tâm hồn và bản sắc dân tộc Việt Nam. Người xem luôn cảm nhận được “hồn chèo” kết đọng trong mỗi tác phẩm của ông. Trong hơn 120 vở diễn chèo (hiện thực dân gian, hiện thực trong các truyện Nôm khuyết danh, thần thoại, cổ tích, dã sử, lịch sử) và các vở diễn chèo đề tài cách mạng và kháng chiến, họa sĩ Dân Quốc đã vận dụng các nguyên tắc thuộc phương pháp thể loại chèo vào sáng tác thiết kế mỹ thuật.
Về đề tài hiện thực đương đại, trong đó có đề tài hiện thực cách mạng và kháng chiến, ông có nhiều tác phẩm thành công và “rất chèo” như các vở: “Dệt những mùa xuân” - Nhà hát Chèo Việt Nam 1978, “Nhớ về Bắc Mã” - Đoàn chèo Quảng Ninh 1986, “Đôi mắt” - Trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam 1976, “Dòng thác đỏ” - Đoàn chèo Hà Tuyên 1979, “Tấm lòng hậu phương” - Đoàn chèo Trường Sơn 1971, “Chuyện tình dưới mái đình xưa” - Đoàn chèo Thái Bình 1994, “Đêm trăng huyền thoại” - Đoàn chèo Thái Nguyên 1999, “Bão rừng” - Đoàn chèo Hoàng Liên Sơn, “Chiếc nón bài thơ” - Đoàn chèo Nam Hà 1978, “Ngôi sao Hạ Long” - Đoàn chèo Quảng Ninh 1976… Đặc biệt thành công, thấm đẫm chất chèo đến từng chi tiết của thiết kế mỹ thuật là vở diễn chèo hiện đại “Sông Trà Khúc” của cố NSND Tào Mạt. Với một “dáng dấp hiện đại mới lạ”, vở diễn đã được tặng thưởng Huy chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu toàn quốc được tổ chức tại Nghĩa Bình năm 1985.
Ngoài thiết kế mỹ thuật cho các vở diễn của Nhà hát Chèo Việt Nam (nơi ông công tác), họa sĩ Dân Quốc còn được các tỉnh, thành phố (những địa phương có các Đoàn, Nhà hát chèo) và quân đội mời thiết kế mỹ thuật cho các vở diễn chèo của họ. Hầu hết thiết kế mỹ thuật cho các vở chèo truyền thống của họa sĩ Dân Quốc đều thành công, đặc biệt trong đó là thiết kế mỹ thuật của vở chèo “Quan Âm Thị Kính”, không chỉ có tiếng vang trong nước, mà còn được hưởng ứng và đánh giá cao ở nước ngoài.
Họa sĩ Dân Quốc chia sẻ: “Sau 19 năm làm họa sĩ thiết kế mỹ thuật ở Nhà hát Chèo Việt Nam, đến khi nghỉ hưu năm 2003, tôi đã thiết kế được 27 vở diễn, 3 chương trình chèo đi biểu diễn Quốc tế: tại Bungaria 1982, tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế ở CHDC Đức 1985 (với vở “Quan Âm Thị Kính”) và Liên hoan Sân khấu các nước nói tiếng Pháp tại Limoge năm 1993. Năm 1987, tôi được mời giới thiệu về mỹ thuật chèo tại triển lãm Mỹ thuật sân khấu Quốc tế tổ chức ở Tiệp Khắc”.
Là họa sĩ thiết kế mỹ thuật sân khấu chèo thuộc thế hệ thứ hai trong số ít những họa sĩ thiết kế mỹ thuật sân khấu chèo, họa sĩ Dân Quốc đã dành cả cuộc đời cống hiến cho sự phát triển của mỹ thuật chèo. Không chỉ thạo “nghề” hội họa, họa sĩ Dân Quốc còn am hiểu sâu sắc các loại hình, loại thể nghệ thuật thuật có liên quan như: kiến trúc, điêu khắc (nhất là kiến trúc, điêu khắc dân tộc), nghệ thuật đạo diễn, nghệ thuật biểu diễn chèo. Đặc biệt, ông từng nghiên cứu, nắm vững nghệ thuật chèo cổ và phương pháp thể loại của chèo truyền thống - kết tinh của nghệ thuật chèo Việt Nam; đó là phương pháp hiện thực tả ý hiện thân của tư duy liên tưởng. Trong tác phẩm của mình, họa sĩ Dân Quốc đã vận dụng thành công hệ những nguyên tắc trong nghệ thuật chèo, từ tự sự, ước lệ, lạ hóa, lấy điểm để tả diện, cách điệu hóa, ẩn dụ hóa đến so sánh, đối chiếu, huyền thoại hóa, giả định hóa, mô hình hóa, tượng trưng.
Họa sĩ Dân Quốc không chỉ là người có “sở trường” tư duy liên tưởng của nghệ thuật chèo, mà còn am hiểu, cảm thức, cảm hứng sâu sắc và mê say chèo cổ, chèo truyền thống, tranh dân gian, tranh thờ miền núi, tượng gỗ dân gian... Tất cả đọng lại nơi suy cảm - cảm thức và tư duy của họa sĩ mỹ thuật chèo này, đặng chuyển nhập chúng vào những cảnh tượng, phục trang trong các vở diễn chèo cổ, chèo truyền thống, chèo đề tài hiện đại do ông thiết kế. Chúng không chỉ là địa điểm, hoàn cảnh - không gian sống riêng biệt của các nhân vật nhất định, mà còn là những bức tranh “độc lập” thể hiện muôn vẻ của cuộc sống, con người. Nào cảnh đời tam nông dưới thời phong kiến với chế độ gia trưởng độc đoán, chuyên quyền, phảng phất đâu đây số phận những người phụ nữ bị đọa đầy; nào những tấm lòng, những hình tượng nhân hậu, kiên trung, ân tình, đảm đang, bất khuất của những người vợ, người mẹ là những người nông dân lao động bình thường trong xã hội…
Cũng từ những “cảnh đời” tại các vở diễn do ông thiết kế ấy, khán giả cảm thức như đâu đây văng vẳng tiếng sáo diều, như thấy cả cây đa, giếng nước, sân đình, bãi chợ, bến sông mà những vở chèo từng diễn ra. Bằng tài năng, vốn sống, cùng sự am hiểu sâu sắc về lịch sử họa sĩ Dân Quốc đã đưa vào tác phẩm của mình muôn vẻ của cuộc sống. Ở đó, cái thiện, cái ác xen nhau va đập khi quyết liệt, căng thẳng; khi ngừng lặng hòa hoãn. Tất cả đều ảnh xạ vào những cảnh trí, phục trang, đạo cụ mà ông thiết kế như trong các vở: “Quan Âm Thị Kính”, “Tấm Cám”, “Trương Viên”, “Súy Vân”, “Lưu Bình Dương Lễ”, “Từ Thức”, “Đường lên núi sắt”, “Thạch Sanh”, Trê cóc”…
Về phục trang, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành viết: “Nó thực sự là kết quả của sự tìm hiểu công phu trang phục của dân tộc Việt Nam qua các chặng đường lịch sử đồng thời lại gắn với thân phận và từng tính cách nhân vật của mỗi vở diễn. Những bộ trang phục dành cho chèo của họa sĩ Dân Quốc cũng có thể tồn tại độc lập như bộ sưu tập về trang phục của người Việt Nam xưa: đẹp, nền nã, trang nhã, giản dị mang đúng nét truyền thống của dân tộc. Mặt khác, các bộ trang phục lại hòa nhập ngọt ngào với nền cảnh mà chính Dân Quốc tạo ra, khiến cho mỗi vở chèo là một khung cảnh sống thực sự”.
Cái khó trong việc tạo mẫu trang phục cho các nhân vật trong mỗi vở diễn chèo cổ và chèo truyền thống nằm ở chỗ: các nhân vật không cùng giai cấp, địa vị xã hội, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tín ngưỡng tôn giáo… nên việc tạo mẫu - kiểu mốt, chất liệu, màu sắc, hoa văn, thị hiếu thẩm mỹ thời đại… cho mỗi nhân vật không đơn giản. Trình độ văn minh, văn hóa thời đại của mỗi bộ trang phục phải được đan nhiễm, hòa quyện vào nhau như là chính nó. Họa sĩ Dân Quốc đã làm được một cách riêng biệt, độc đáo, màu sắc dân gian truyền thống, tinh tế cho “cái mặc” của những con người - nhân vật “ngày xưa” ấy, như họ đang là trên sân khấu chèo.
Họa sĩ Dân Quốc nay đã ở tuổi ngoài 80. Trước bộn bề của cuộc sống thời kỳ hội nhập, nhất là của sân khấu chèo hôm nay, người nghệ sĩ năm xưa vẫn chất chứa bao trăn trở. Ông băn khoăn: liệu chèo còn thích hợp với hiện thực mới nữa không; nguyên tắc nào trong phương pháp thể loại chèo truyền thống đã không còn thích hợp nữa; và làm thế nào để chèo có “đất sống”, tiếp tục ánh hiện thực mới và con người mới hôm nay…
Trở lại với người thiết tạo những không gian “sắc sắc không không” cho hơn 120 vở diễn chèo, tôi lại muốn nhắc tới cuốn sách “Mỹ thuật sân khấu chèo - Phục trang biểu diễn” (NXB Sân khấu, 2018) in hơn 4000 mẫu trang phục, được tuyển chọn từ những vở diễn của ông. Cuốn sách một lần nữa chứng tỏ rằng, làm mỹ thuật chèo, nếu không có tâm hồn và tư duy dân tộc thì không thể làm được… GS. NSND Trần Bảng từng chia sẻ: “Tôi rất mừng khi NXB Sân khấu in bộ tác phẩm mỹ thuật chèo của họa sĩ Dân Quốc. Đây hầu như là toàn bộ những tác phẩm sáng tác của họa sĩ dành cho mỹ thuật chèo trong suốt hơn 40 năm qua. Tất cả đều được phục hồi, gia công, biên tập, trình bày và chế bản rất đẹp. Đó là điều đặc biệt mà chưa một họa sĩ nào làm được. Tôi cảm phục niềm đam mê trong trái tim người nghệ sĩ trước niềm tin vào sự trường tồn bất diệt của nghệ thuật chèo - một di sản sân khấu đặc sắc trong kho tàng văn hóa Việt Nam”.