Nhà thơ Tú Mỡ - tác giả nhiửu câu thơ độc đáo nhắc tới hình ảnh con rồng.
Rồng giửi nhà o lộn trong thơ Tú Mỡ
Đọc các nhà thơ từ đầu thế kỷ tới nay, ta thấy nhà thơ trà o phúng Tú Mỡ (1900-1976) có lẽ vẫn là một trong những người nhắc tới rồng nhiửu hơn cả. Những chữ "rồng xanh" (chỉ tiửn Đông Dương có hình con rồng mà u và ng - xanh), "sắc rồng" (nói sức khửe - với hà m ý giễu cợt - của những vị có lối sống công thần, xa dân) đã xuất hiện một số lần trong thơ ông. Đặc biệt, nói tới thơ trà o phúng Tú Mỡ, người ta không thể không nhắc tới bà i thơ "Lỡm cô Ngọc Hồ" với mấy chữ "rồng lộn" được sử dụng hết sức tà i tình, theo lối nói lái của Hồ Xuân Hương. Bà i thơ nà y có xuất xứ như sau:
Năm 1935, trên một tử báo có tên gọi là Loa (do nhà văn Lan Khai là m chủ bút) mỗi kử³ lại in một chuyện mang nội dung khiêu dâm, kèm đó là bức ảnh những cô gái "tân thời" để câu độc giả. Lần ấy, báo in ảnh của một cô gái nổi tiếng giới ăn chơi đất Hà thà nh với dòng chú thích: Băng Tâm khách (tức cô Ngọc Hồ). Đây là cái cớ để Tú Mỡ là m bà i thơ "Lỡm cô Ngọc Hồ". Một số tà i liệu khi nhắc tới bà i thơ nà y chỉ nói nó có 8 câu. Ở đây, tôi xin dẫn đầy đủ bà i thơ theo cuốn "Nông Quốc Chấn - Tú Mỡ - tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh" do NXB Văn học ấn hà nh năm 2007, nguyên văn như sau:
Trơ tráo kìa ai chẳng sượng sùng Mình trần trùng trục thú tình không? Nõn nà một tấm băng trong muốt Thỗn thện hai bầu tuyết trắng bong NGửŒC thẹn là n môi e ấp miệng Hử’ ghen sóng mắt đắm say lòng Anh hoa phát tiết là như thế Ướm hửi cô em đã mấy chồng?
Tưởng băng trắng muốt, tuyết trong veo Tuyết lấm, băng nhơ, rõ chán phèo Tiết sạch coi nhà m, trăng gió nhởn Hoa tà n vẫn dử bướm ong theo Hử’ tù ngán nỗi con rồng lộn NGửŒC vết thương tình kẻ cố đeo Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá Mử¹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.
Sau nà y, trong hồi ký của mình, Tú Mỡ đã khiêm tốn nhận định: "Trong hai mươi năm học tập Hồ Xuân Hương tôi chỉ có là m được một bà i thơ, trong bà i thơ chỉ có hai câu phảng phất cái hương xuân của nữ thi hà o, đó là bà i "Lỡm cô Ngọc Hồ".
Quả tình, đọc bà i thơ, người sà nh thơ chẳng khó khăn gì mà không nhận ra trong hai câu "Hồ tù ngán nỗi con rồng lộn/ Ngọc vết thương tình kẻ cố đeo", hai chữ đầu câu ghép lại thà nh tên của người phụ nữ mà tác giả đang nói tới (Ngọc Hồ), và mấy chữ "rồng lộn", "cố đeo", nếu đọc lái đi (tương tự cách đọc câu thơ của Hồ Xuân Hương "Trái gió cho nên phải lộn lèo" trong bà i "Kiếp tu hà nh"), ta sẽ hiểu thâm ý của tác giả.
![]() |
Thuỷ tinh ngồi trên lưng rồng giao chiến với Sơn Tinh - tranh minh họa bà i thơ "Sơn Tinh, Thuỷ Tinh" của Nguyễn Nhược Pháp. |
Đa dạng trong thơ Chế Lan Viên:
Chế Lan Viên (1920-1989) chủ yếu là một nhà thơ trữ tình. Trong thơ ông, hình tượng rồng cũng xuất hiện nhiửu nhưng nó mang hà m ý khen - chê đa dạng hơn, tùy và o bối cảnh chứ không một chiửu giễu cợt như Tú Mỡ. Có chỗ ông xem đấy là một giống quý và liên hệ với việc là m thơ: "Có rồng, nhưng cũng có cá rồng rồng, không phải là rồng/ Có thơ, nhưng lại có cái thẩn thơ, thơ thẩn" (bà i "Thơ vử thơ"). Có chỗ, ông dùng để nói cái uy lực đang tà n dần của một vương triửu: "Dưới chân ta, đến đầu hà ng Đử Cát/ Rồng năm móng vua quan thà nh bụi đất/ Mỗi trang thơ đửu dội tiếng ta cười" (bà i "Tổ quốc bao giử đẹp thế nà y chăng?"). Lại có chỗ, ông xem nó là xa lạ với cuộc sống đời thường dân giã:
Đâu vương triửu? Đâu là Mạc, đâu là Lê? Còn lại đây người tắm trần trên thơ gỗ Nét dao chạm quên mất mặt rồng vua chúa Chỉ để lại hoa người và một lá sen che
(bà i "Người thợ chạm").
Theo các nhà nghiên cứu văn học sử cho biết, giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám, Chế Lan Viên sinh hoạt trong nhóm thơ Bình Định cùng các nhà thơ: Hà n Mặc Tử, Quách Tấn và Yến Lan. Nhóm thơ nà y được gọi là nhóm "long, lân, qui, phụng", trong đó Hà n Mặc Tử ứng với con rồng, Quách Tấn ứng với con rùa, Yến Lan ứng với con lân, còn Chế Lan Viên ứng với phượng hoà ng. Đối chiếu thơ Hà n Mặc Tử và thơ Chế Lan Viên, ta thấy Chế Lan Viên viết vử rồng nhiửu hơn hẳn Hà n Mặc Tử, người được xem là ứng với con rồng trong nhóm thơ...
Xuất hiện bất ngử trong thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu sinh năm Bính Thìn (1916 - 1985). Đọc thơ ông, ta thấy ông ít nhắc trực tiếp tới hình ảnh con rồng mà chỉ để nó lẩn quất đây đó trong các ý thơ, kiểu như "Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời/ Kẻ đựng trái tim chìu máu đất/ Hai tay chín móng bám và o đời". Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa ông không từng nhắc tới hình ảnh rồng. Một trong những lần hiếm hoi hình ảnh nà y xuất hiện trong thơ ông là và o năm 1976, khi ông viết bà i thơ "Vãng cảnh Sà i Sơn". Đây là khổ đầu của bà i thơ:
Vãng cảnh Sà i Sơn bước luyến chân Thăm con rồng bướng của Chu Thần. Đi theo hoa đại lên lưng núi Hóng gió Chùa Cao hương thanh tân.
Chu Thần là tên hiệu của thi nhân Cao Bá Quát. Xuân Diệu giải thích, sở dĩ ông nhắc tới hình ảnh con rồng khi vãng cảnh Sà i Sơn là bởi ông nhớ, trong bà i thơ vịnh núi Sà i Sơn, Cao Bá Quát từng viết - dịch ra tiếng Việt là : "Rồng bướng giương vây dậy giữa đồi". Câu thơ nà y nằm trong một bà i thơ chữ Hán được đử và o vách núi Sà i Sơn mà Xuân Diệu nhận xét là "mở ra thật hà o phóng":
Tham chơi đầu bạc hứng chưa nguôi Chống gậy trèo cao rộng bước chơi Bút cuốn khói mây mười sáu ngọn Mắt thu non nước vạn trùng khơi à‚m xưa hạc ốm nghe im tiếng Rồng bướng giương vây dậy giữa đồi Hãy tới Chợ Trời tung điệu sáo Vòm trời cười hửi mất xa vời?
Rõ rà ng, bà i thơ nhắc tới nhiửu hình ảnh, song tác giả vẫn nhớ nhất hình ảnh con rồng "giương vây dậy giữa đồi". Thi nhân thật là biết chọn lọc chi tiết, hình ảnh "đắt giá".
Và "bất lực" trong thơ Nguyễn Nhược Pháp
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là tác giả tập thơ "Ngà y xưa" chỉ mửng mảnh mươi bà i, trong đó có hai bà i đến nay vẫn được người đời truyửn tụng là "Sơn Tinh, Thủy Tinh" và "Chùa Hương". Cả hai bà i thơ nà y đửu có nhắc đến chữ "rồng". Ở "Chùa Hương", chữ "rồng" ấy dùng để nói vử tà i nghệ viết chữ đẹp của chà ng trai - một trong những nhân vật chính của bà i thơ "Chà ng đưa tay lẹ bút/ Thảo bà i thơ liên hoà n/ Tấm tắc thầy khen hay/ Chữ đẹp như rồng bay". Còn trong bà i thơ "Sơn Tinh, Thủy Tinh", rồng xuất hiện với tư cách một con vật có sức mạnh tham chiến.
Khi lần đầu ra mắt Hùng Vương, Sơn Tinh thì cườ¡i hổ, Thủy Tinh cườ¡i rồng, và cả hai thần trông đửu oai vệ:
Một thần phi bạch hổ trên cạn Một thần cườ¡i lưng rồng uy nghi.
Đến khi hai thần trổ tà i mong được Hùng vương gả cho nà ng Mửµ Nương, rồng vẫn tiếp tục được Thủy Tinh dùng để trực tiếp phò tá mình "Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng và ng/ Yên gấm tung dà i bay đử chóe". Tuy nhiên, trước sức mạnh của Sơn Tinh, "binh sĩ" rồng của Thủy Tinh tử ra... bất lực, có lúc phải kêu rú lên vì bị chủ tướng thúc đau "Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú"...
Chúng ta từng quen với hình ảnh... thăng long (tức rồng bay), ít khi chứng kiến cảnh rồng phải chiến đấu dưới nước, là quân của Thần nước, trong bối cảnh "Sóng cả gầm reo lăn như chớp" thế nà y. à‚u cũng là một nét mới mà thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp đã đem tới, là m phong phú thêm trí tưởng tượng của chúng ta