Đó là một trong những nhận định của các chuyên gia kinh tế, trong Hội thảo khoa học quốc tế Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và định hướng tới năm 2020 được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân phối hợp với Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngà y 24/2, tại Hà Nội.
Phát triển nhanh nhưng không bửn vững
Trong 10 năm từ 2001- 2010 Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng là m thay đổi cả thế và lực của đất nước. Kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao đứng thứ 2 tại châu à (sau Trung Quốc), được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam trở thà nh thà nh viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Nhiửu mục tiêu chủ yếu của chiến lược 2001 “ 2010 đã được thực hiện, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm...
Giai đoạn 2001 - 2010 kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm...
Tuy nhiên, PGS.TS Trần Thọ Đạt “ Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân nhận định rằng, nửn kinh tế vẫn dưới mức tiửm năng, tăng trưởng chưa thật bửn vững và ổn định. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và có xu hướng chậm lại từ năm 2005.
Các nguyên nhân dẫn đến điửu nà y là do tăng trưởng của nước ta chủ yếu dựa và o khai thác tà i nguyên mà chưa tạo được lợi thế cạnh tranh; Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngà nh, vùng kinh tế ngà y cà ng dựa và o vốn đầu tư trực tiếp nước ngoà i nhưng nguồn vốn nà y phân bổ không đầu đửu, chất lượng chưa cao. Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh nhưng cơ cấu xuất khẩu chậm thay đổi, chủ yếu là xuất hà ng thô, sơ chế, năng lực cạnh tranh hà ng xuất khẩu còn kém.
Hiệu quả và chất lượng đầu tư thấp, hệ số ICOR ngà y cà ng cao, nửn kinh tế ngà y cà ng cần nhiửu vốn hơn để tăng trưởng trong khi cơ cấu đầu tư mất cân đối, đầu tư cho con người và cải tiến công nghệ còn thấp.
Hiệu quả quản lý nhà nước thấp và chậm được cải thiện, văn bản qui phạm pháp luật ban hà nh chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn, cách thức xây dựng thiếu khoa học, thiếu chuyên nghiệp, đôi lúc có biểu hiện lợi ích cục bộ.
Thực tế cho thấy, tốc độ tăng năng suất lao đông của Việt Nam đạt trung bình 5,13%. Năng suất lao động tuyệt đối của Việt Nam vẫn ở mức thấp, mới chỉ đạt khoảng 5.676 USD/người/năm trong khi đó nhiửu nước đang phát triển trong khu vực đã gấp 3-4 lần. Đồng thời mức tiêu hao và sử dụng năng lượng rất cao, năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn 2001 đến nay hầu như không được cải thiện, thậm chí còn tụt hạng.
TS. Trần Văn - Ủy ban Tà i chính “ Ngân sách của Quốc hội cũng chia sẻ: Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước đi đầu trong việc thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG). Đến năm 2010, Việt Nam đã hoà n thà nh trước thời hạn 5/8 các mục tiêu và có thể cơ bản đạt hết các mục tiêu và o năm 2015... Chất lượng cuộc sống của người dân đang từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên nhìn và o chuỗi số liệu của giai đoạn 2006 “ 2010, có nhiửu chỉ số đáng lo ngại như tính bửn vững của ngân sách nhà nước với số bội chi tăng cao, nợ công cao, tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước tăng cả vử tỷ trọng và giá trị tuyệt đối nhưng do quá dà n trải và chưa thật sự hiệu quả đã dẫn đến chỉ số ICOR cao, tổng mức đầu tư toà n xã hội tăng 2,5 lần so với giai đoạn 2001 “ 2005 nhưng cơ cấu kinh tế hầu như không chuyển dịch theo hướng tích cực, nhập siêu cao nhiửu năm liên tục dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, chỉ số giá cả tăng cao bất thường...
Trong khi đó, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân lại quan ngại: những năm qua, trong cơn say tăng trưởng vô hình chung đã thúc đẩy Việt Nam theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiửu rộng dựa trên cơ sở tăng vốn đầu tư và khai thác lợi thế vử tà i nguyên và sức lao động dồi dà o, những khía cạnh tăng trưởng theo chiửu sâu còn khá mử nhạt.
Mô hình tăng trưởng nà y, mặc dù đem lại những hiệu ứng tích cực: đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiửu năm liửn và những thà nh tựu ấn tượng vử xóa đói giảm nghèo. Nhưng việc chậm chuyển đổi mô hình tăng trưởng đã mang lại những hệ lụy tiêu cực, mà nổi bật là chất lượng tăng trưởng thấp kém và bất cập trong bảo đảm yêu cầu phát triển bửn vững, đặc biệt là sự gia tăng chênh lệch vử trình độ phát triển và thu nhập giữa các vùng và các tầng lớp dân cư, sự gia tăng tình trạng ô nhiễm môi trường và nguy cơ cạn kiệt nhiửu loại tà i nguyên.
Cần phải tái cơ cấu kinh tế và thoát khửi cơn say tăng trưởng
Định hướng phát triển cho các năm tới, các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong giai đoạn toà n cầu hóa hiện nay là vô cùng cần thiết. Trong đó, tái cơ cấu lại ngà nh nghử, vùng lãnh thổ, sản phẩm, nguồn nhân lực và các loại thị trường, đặc biệt là nâng cao thể chế quản lý nhà nước là những nhiệm vụ trọng tâm.
Kinh tế Việt Nam trong tương lai cần phải chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế
Bên cạnh đó, phải phát huy tối đa nội lực tổng hợp của đất nước và sử dụng có hiệu quả vốn, kử¹ thuantj công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới, chuyển dịch lên phía trên trong chuỗi giá trị, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao, tránh cái bẫy chi phí lao động thấp liên quan tới bản chất đã thay đổi của cạnh tranh.
Vử vấn đử nà y, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (Trường Đại học KT Quốc Dân) cho rằng, để nâng cao chất lượng tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, cần phải thoát khửi cơn say tăng trưởng, thoát khửi tâm lý chạy theo tốc độ, không quan tâm đầy đủ đến chất lượng và khả năng kiểm soát các cân đối kinh tế vĩ mô. Để là m được điửu nà y, cần kết hợp bộ ba: tốc độ tăng trưởng bình quân ở mức trên dưới 7,5% trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong khuôn khổ bộ chi ngân sách ở mức dưới 4 “ 5% so với GDP, dần dần cân bằng được cán cân thương mại và tốc độ tăng CPI thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
Trong chuyển dịch cơ cấu ngà nh phải tôn trọng các nguyên tắc thị trường trong định hướng chuyển dịch cơ cấu ngà nh kinh tế. Điửu nà y có nghĩa, phải xuất phát từ nhu cầu thị trường để khai thác các nguồn lực và lợi thế theo tinh thần sản xuất và đưa ra thị trường cái mà thị trường cần, chứ không phải đưa ra thị trường cái mà mình sẵn có.
GS.TS Nguyễn Kế Tuấn cũng nhấn mạnh, tăng cường quản lý công là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, bởi có ý kiến cho rằng trong 3 nguyên nhân gây ra lạm phát hiện nay thì ngoà i yếu tố tiửn tệ chiếm 40%, 30% do giá cả thị trường, còn 30% là do đầu tư công.
Thực tế nhiửu năm qua cũng cho thấy, bên cạnh những tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng và xóa đói giảm nghèo, đầu tư công với quy mô lớn, dà n trải và những thất thoát, lãng phí trong quản lý nguồn vốn nà y là một trong những nguyên nhân là m giảm chất lượng tăng trưởng và mang đến những bất ổn kinh tế vĩ mô...