Định hình một ngòi bút phê bình văn học

Vũ Nho| 25/03/2020 09:37

Theo dõi danh sách kết nạp hội viên của Hội Nhà văn Hà Nội, của Hội Nhà văn Việt Nam hàng chục năm qua có thể thấy hội viên ngành phê bình văn học chỉ một hai người so với bốn năm mươi người ở ngành thơ và văn xuôi. Điều đó cho thấy trở thành một người viết phê bình chuyên tâm, có tác phẩm là chuyện không đơn giản và không mấy hấp dẫn với người viết. Vì vậy chúng ta thật sự vui mừng khi bắt gặp tập phê bình văn học khá dày dặn của Xuân Hùng.

Định hình một ngòi bút phê bình văn học

Xuân Hùng là người viết truyện và kịch ngắn. Anh công tác ở Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Việc tiếp xúc thường xuyên với bản thảo của các tác giả in sách ở nhà xuất bản nơi anh công tác đã tạo điều kiện, kích thích ngòi bút của anh hướng về phía phê bình. Chắc chắn việc biên tập và thẩm định đã vừa bắt buộc, vừa tạo cơ hội cho anh viết. Không ngạc nhiên khi các bài phê bình được xếp vào ba mảng  “Chúng tôi - những người chiến sĩ” (9 bài), “Muôn màu cuộc sống” (9 bài), “Nốt trầm văn hóa miền sơn cước” (6 bài), phần lớn (16/24) đều là bài viết về các tập sách in ở Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Là người viết truyện ngắn và kịch, nhưng sang lĩnh vực phê bình, ngòi bút của Xuân Hùng tỏ ra đa dạng và tung tẩy hơn. Hầu hết các thể loại văn học đều được anh động bút từ truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí, tản văn đến thơ, trường ca, khảo cứu.

Có thể nói Xuân Hùng là người viết phê bình đã định hình chủ yếu ở lĩnh vực tác phẩm viết về đời sống bộ đội trong thời chiến, thời bình và tác phẩm viết về đời sống các dân tộc ít người trong cộng đồng các dân tộc của nước ta. Anh là một người viết trẻ, có phải vì thế chăng mà trong không gian phê bình của mình, anh dành một phần rộng đáng kể để viết về những cây bút trẻ và bút mới như: Lê Mạnh Thường, Minh Hương, Tống  Ngọc Hân, Chu Thị Minh Huệ, Hạnh Trần, Nông Quang Khiêm, H’Siêu, H’Phi La. Và cách tiếp cận tác phẩm của cây bút phê bình căn bản là cách tiếp cận văn hóa, một xu hướng không mới, nhưng rất thịnh hành trong những năm gần đây.

Bất cứ tác giả nào, dù là người lính cầm bút có thâm niên hay một bạn viết trẻ mới có thành tựu bước đầu, nhưng tác phẩm của họ đều được Xuân Hùng đọc và viết với tinh thần nâng niu, trân trọng. Bởi có lẽ là người viết, anh thấm thía nỗi vất vả, nhọc nhằn mang nặng đẻ đau của người sáng tác. Mặt khác, anh là người nhiệt thành, nhiệt tâm khi quan niệm “Bất kì viết về cái gì, nhà văn cũng thâm nhập vào đối tượng với một con tim nóng hổi, chuyển hóa cái đối tượng khách quan thành đối tượng chủ quan đến mức tưởng như chính mình sinh ra cái khách quan ấy. Nhà văn luôn luôn mang một tấm lòng rộng mở, biết ngạc nhiên dù là đối với một vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, rất nhạy cảm với những đổi thay xung quanh” (trang 221). Đó là suy ngẫm của anh về đồng nghiệp và cũng chính là cách ứng xử của bản thân mình.

Dù chưa in tập thơ nào, nhưng bài viết về thơ của Nguyễn Hồng Minh “Một chữ “tình” trong thơ người lính”, Xuân Hùng thể hiện sự tâm đắc và bắt đúng mạch cảm hứng xuyên suốt 2 tập thơ của tác giả. Những lời phân tích, bình giải khá thuyết phục. Nói về chữ “tình”, người viết đã dẫn ra chữ “tình” trong thơ chống Mỹ của những nhà thơ nổi tiếng, những người đồng đội với Nguyễn Hồng Minh và khẳng định “Theo tôi, chữ “tình” ở đây không đơn thuần chỉ là thứ tình yêu trai gái, mà nó mang nặng tâm thế của một thời lửa đạn sục sôi. Chữ “tình” như một điều gì đó vừa thiêng liêng, cao cả lại vừa chất chứa vẻ bình dị. Nó là sự hun đúc của tâm hồn người chiến sĩ cầm bút”. Và nhà phê bình dẫn ra những câu thơ mộc mạc, giản dị mà gần gũi: “Điều anh muốn nói với em/ Không ba lô nào chứa nổi… Mang nỗi nhớ cồn cào nỗi nhớ/ Ở hai đầu ta gửi cho nhau” (trang 31). Viết về tập thơ của nhà thơ trẻ Ngô Bá Hòa, Xuân Hùng không giấu niềm cảm mến, mặc dù cũng có những nhắc nhở, phê bình nhẹ nhàng thân ái. Chính vì thế người viết mới nhìn “Cánh đồng cỏ úa” (nhan đề tập thơ) thành “Cánh đồng mọc ước mơ” (nhan đề bài viết về tập thơ). Những câu thơ được trích dẫn là những câu thơ đẹp, gợi cảm của Ngô Bá Hòa: 

“Tuổi thơ tôi thơm mùi cánh đồng/ úa vàng nỗi đau bỏ ngỏ/ trên mi mắt cha buồn/ mẹ vẫn về theo từng ngọn gió…”.

“Váy em lóa cả bình minh/ mắt em đựng mùa xuân chất ngất”

“Những đứa trẻ lớn trong màu xanh/ Có ánh mắt thấu đại ngàn/ Có đôi tai lắng trăm ngàn núi/ Và nụ cười vỡ ánh hoàng hôn”.

Tôi từng đồng tình với nhiều nhà thơ và nhà phê bình rằng, một bài giới thiệu tập thơ thành công, trước hết là trích được những câu thơ đáng trích của tác giả.

Là người viết truyện ngắn, nên những bài phê bình truyện ngắn (một truyện, một chùm truyện, một tập truyện) của Xuân Hùng tỏ ra chắc chắn và đáng tin cậy, thành công hơn cả. Anh phát hiện sự thành công của Lê Mạnh Thường trong tập truyện ngắn “Biển khóc” vì chất thực được thể hiện khá mới, bi tráng và xúc động: “Trong những truyện ngắn này, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những câu chuyện rất đời thực, gần gũi, nhưng với giọng kể hơi ồn ào, pha chút mặn mòi, mạnh mẽ như những làn sóng biển của Lê Mạnh Thường đã tạo nên những cái gì đó rất mới, rất bi tráng và xúc động, khiến cho người đọc không thể kìm nén được lòng mình” (trang 23). Bình luận về chùm ba truyện ngắn của ba người lính đăng trên báo Văn nghệ, tác giả với tư cách là “người đọc trẻ” đã khẳng định đầy tin tưởng rằng “Trận đánh cuối cùng của người lính” không phải là những trận đánh bằng súng đạn khi giáp mặt với quân thù, mà chính là trận đánh của số phận với những dư âm, kỉ niệm chiến tranh; của bản lĩnh những con người từng đi qua chiến tranh với cuộc sống xã hội luôn biến đổi từng ngày xung quanh họ” (trang 46).

Với truyện ngắn “Chín vía” của Nguyễn Thị Ngọc Hà, tác giả đã viết một bài dài, thậm chí dài hơn cả mấy bài viết về nguyên một tập nhiều truyện ngắn. Cũng thỏa đáng thôi vì người viết thú nhận ngay từ đầu bài viết “Tôi như bị thôi miên khi chạm vào Chín vía” (trang 95). Tác giả đã phân tích kĩ lưỡng truyện ngắn này với ba tiểu mục: 1. Ngôn ngữ đặc tả trong xây dựng nhân vật điển hình; 2. Mượn tâm linh để mê hoặc người đọc;  3. Phút cuồng nộ nội tâm và giá trị thực của tình người. Có vẻ như người viết say sưa hơi thái quá một chút trong giọng điệu ngợi ca (mặc dù đã sử dụng từ nghi vấn “hình như”), nhưng người viết cũng đủ bình tĩnh và tỉnh táo để khẳng định “Nguyễn Thị Ngọc Hà chỉ có ý  mượn cái gọi là Vía để phục vụ cho mục đích dựng truyện của mình chứ không bị sa vào ma mị của thế giới tâm linh” (trang 101).

Hầu như viết về tác phẩm hay tác giả nào, người viết cũng gắng khám phá những nét riêng, nét độc đáo của họ. Điều này thật không dễ. Ví như với Lê Văn Vọng thì “giọng văn thật thà, nhè nhẹ, nhưng ẩn chưa bên trong là sự len lỏi, hâm nóng cảm xúc cho người đọc”. Còn Nguyễn Hiền Lương chỉ “miêu tả những khoảnh khắc đẹp nhất của tình yêu người lính”. Nguyễn Trọng Văn “kể chuyện rất thật, rất gần, rất từ tốn” (Đâu sẽ là “trận đánh cuối cùng” của người lính?). “Phạm Minh Hà không giỏi trong cách miêu tả tình tiết, nhưng ông lại có cái hay trong cách dựng chuyện” (Giản dị khi người lính cầm bút). Hà Nguyên Huyến thì “sẽ không bao giờ vượt khỏi ngưỡng cái cổng làng lịch sử của quê hương. Bởi chỉ có ở đó, chỉ có ở làng Việt cổ Đường Lâm thì ngòi bút của ông mới thực sự biến ảo, nhảy múa và cuốn hút người đọc” (Hành trình độc đáo của đá ong). Còn Tống Ngọc Hân, một cây bút nữ “đổi mới liên tục trong tư duy sáng tác, về nghệ thuật dựng truyện và đặc biệt là chất liệu sống mà không phải người viết trẻ nào cũng có được” (Khi chạm vào “vỉa tầng” của sự nhạy cảm).

Bám sát văn bản tác phẩm, mạnh dạn trình bày những suy nghĩ, cảm nhận; không giấu những cảm xúc cá nhân khi tiếp nhận; trình bày những hiểu biết, cảm nhận của mình bằng một  giọng văn chân thành, nồng nhiệt. Chính điều đó đã làm cho người viết thành công khi viết về các tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau bất kể là tác phẩm viết về người lính mà anh thông thuộc hay viết về mảng văn hóa các dân tộc mà anh bước đầu làm quen, bước đầu đi sâu và cảm mến.

Tất nhiên, đây là cuốn sách đầu tay, nên không tránh khỏi những chỗ này chỗ khác còn chưa được như ý. Nhưng rõ ràng Xuân Hùng đã bắt đầu định hình một ngòi bút phê bình văn học có giọng điệu riêng, có cách tiếp cận riêng. Anh còn nhiều đất viết và còn nhiều thời gian để khẳng định mình trong lĩnh vực phê bình văn học. Chúng ta có đủ căn cứ để tin tưởng và hi vọng.
(0) Bình luận
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Chuyện người đàn bà
    Chín năm về trước, vào khoảng chiều tối, anh phó công tố viên Py-ốt-tơ-rơ Xia-rơ-dếch và tôi ngồi xe ngựa băng qua đồng cỏ đang mùa phơi để đưa mấy lá thư từ trạm về.
  • Sau bão
    Tiếng ấm đun sôi ùng ục. Chị toan mở nắp, chợt nghe có tiếng bước chân. Lại thế. Bà Thịnh giật lấy quả trứng khỏi tay chị. Bà miết ngón trỏ lên vỏ trứng nhẵn bóng như muốn truyền vào đó một thứ nôn nóng khó tả, rồi đập vỡ bằng cái bực dọc đang hừng hực dâng lên. Chẳng ai được ăn quá hai quả trong tuần. “Mì còn dư, lại muốn trương ra rồi húp?” - bà liếc sắc lẹm, ánh nhìn như lưỡi móc câu thọc thẳng vào miệng cá.
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
  • Cuộc phiêu lưu của chì gầy
    Tôi nằm vạ vật ở quầy bán văn phòng phẩm đã lâu mà chẳng cô cậu học sinh nào đoái hoài. Lớp bụi thời gian phủ lên thân thể gầy còm khiến tôi ngứa ngáy, khó chịu. Nhìn các bạn bút chì cùng trang lứa được đón về trong niềm hân hoan, tôi “gato” lắm. Nhiều lần tôi muốn nhào ra khỏi hộp hét lớn “bút chì gầy ở đây nè!” rồi lại thất vọng khi người ta chọn mấy chị bút máy xinh đẹp, anh bút xóa vạm vỡ hay các bạn bút bi sặc sỡ.
  • Phở Đệ Nhất Thanh - Truyện ngắn của Huỳnh Trọng Khang
    Con vàng anh yếm cam nghiêng đầu rỉa cánh. Trong ánh nhập nhoạng của ngày vừa vào sáng, nhúm lông vũ bé bỏng như đốm lửa hoang dã bập bùng trong chiếc lồng treo trước nhà chú Xè.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • Xã Ô Diên đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật, lối sống văn hóa cho thanh thiếu niên
    Thực hiện Kế hoạch của UBND Thành phố Hà Nội, chính quyền xã Ô Diên vừa có Kế hoạch đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của thanh thiếu niên; gắn giáo dục pháp luật với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa giai đoạn 2025 - 2030 trên địa bàn xã khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
  • Hà Nội giành danh hiệu “Thành phố Ẩm thực mới nổi tốt nhất châu Á”
    Tại lễ trao Giải thưởng Ẩm thực Thế giới 2025 ở Italy, Việt Nam được vinh danh “Điểm đến Ẩm thực tốt nhất châu Á”; Thành phố Hà Nội giành danh hiệu “Thành phố Ẩm thực mới nổi tốt nhất châu Á”.
  • Tiệc bánh trôi ở đền Hát Môn
    Đền Hát Môn (nơi thờ Hai Bà Trưng), tọa lạc dưới chân đê sông Hát, thuộc xã Hát Môn, TP Hà Nội. Trước đây, hằng năm dân làng tổ chức lễ hội tại đền ba lần, vào các ngày mùng 8 tháng Ba, mùng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch.
  • Học viện Âm nhạc Huế góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy tinh hoa âm nhạc truyền thống
    Học viện Âm nhạc Huế mạnh dạn đổi mới, hội nhập với dòng chảy nghệ thuật đương đại và trong suốt chặng đường phát triển đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy tinh hoa âm nhạc truyền thống.
  • Hà Nội - Còn mãi với thời gian
    Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực Hà Nội lần thứ 12 năm 2025 với chủ đề “Hà Nội - Còn mãi với thời gian” vừa diễn ra tại không gian vườn hoa Hàng Trống (Hoàn Kiếm, Hà Nội), thu hút sự quan tâm của giới nghệ thuật và đông đảo công chúng. Đây là hoạt động thường niên do Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức, đồng thời là dịp để các tay máy Thủ đô giới thiệu những góc nhìn mới mẻ, đa chiều về mảnh đất ngàn năm văn hiến.
  • Văn Miếu Huế trước khi tu bổ, tôn tạo và phục hồi
    UBND TP Huế đã phê duyệt kinh phí 132 tỷ đồng tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích Văn Miếu và dự kiến khởi công trong quý IV/2025.
  • 30 nữ họa sĩ Bắc - Trung - Nam hội tụ tại triển lãm tranh "Về miền đất đỏ"
    Đây là cuộc triển lãm lần thứ 11, quy tụ 30 nữ họa sĩ đến từ ba miền Bắc - Trung - Nam với gần 50 tác phẩm sáng tác trên nhiều chất liệu như sơn dầu, sơn mài, acrylic, khắc gỗ, giấy dó...
  • Ra mắt cuốn sách “Thơ dịch tuyển chọn - 2025”
    Năm 2025 đánh dấu chặng đường 28 năm hình thành và phát triển của Câu lạc bộ Thơ dịch Hội Nhà văn Hà Nội. Cũng như những năm trước, “Thơ dịch tuyển chọn - 2025” tiếp tục ghi nhận bước tiến vững chắc của một câu lạc bộ có bề dày truyền thống và hoạt động dịch thuật sôi nổi.
  • Cuộc đời và sự nghiệp “Tứ triều nguyên lão” Lễ Trai Đặng Văn Hòa - hiện thân của mẫu nhà Nho quân tử
    Các nhà chuyên gia tại Hội thảo khoa học “Lễ Trai Đặng Văn Hòa – Cuộc đời và sự nghiệp” tập trung vào thảo luận “Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp”, “Những đóng góp đối với lịch sử, văn hóa dân tộc và” “Di sản, bảo tồn, phát huy giá trị liên quan đến nhân vật lịch sử Đặng Văn Hòa”.
  • Festival Thăng Long - Hà Nội 2025: Dòng chảy di sản giữa lòng Thủ đô
    “Festival Thăng Long - Hà Nội 2025” sẽ diễn ra trong 16 ngày, với nhiều hoạt động sôi nổi, nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa của Thủ đô. Qua đó, lan tỏa tinh thần "Di sản-Kết nối-Thời đại", khẳng định vị thế của Hà Nội trong Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO.
Định hình một ngòi bút phê bình văn học
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO