(NHN) Đã gần 20 năm trôi qua nhưng, người là ng vẫn còn nhớ như in câu chuyện vử một anh chà ng mù vượt lên số phận, ngà y ngà y dắt vợ con đi bán tăm tình thương mà dư tiửn xây nhà , mua xe, nuôi con ăn học trưởng thà nh...
Vỡ mộng
Chủ tịch Hội người mù huyện Phúc Thọ - Hà Nội Đà m Quyết Tiến sinh năm 1962, con trai duy nhất trong một gia đình già u truyửn thống hiếu học. Anh vốn người là nh lặn, khoẻ mạnh như bao trà ng trai cùng là ng. Học lớp 10/10, anh được gia đình cho đi Liên Xô học tập mong muốn xong sau nà y có điửu kiện trở vử xây dựng quê hương. Trong khi niửm tin và o ngà y mai đang hừng hực cháy trong lòng người thanh niên Đà m Quyết Tiến, một cơn ác mộng ập đến, anh mắc bệnh hiểm nghèo. Sang Liên Xô gần 3 năm anh thấy thường xuyên nhức đầu, có khi cơn đau đến dồn dập; bất chợt khiến anh phải dán đoạn quá trình học tập, công tác. Anh đến bệnh viện khám, các bác sử¹ cho biết anh bị u não. Cuối năm 1984, anh quyết định mổ u. Do điửu kiện ngà y đó mổ phanh nên xảy ra sự cố, mình bị liệt luôn dây thần kinh số 7 khiến mặt mũi biến dạng, méo xệch. Kéo theo hệ thần kinh tiếp nhận ánh sáng cũng tổn thương tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi phải nằm điửu trị ở Liên xô 3 tháng nữa rồi mới được vử nước- anh tâm sự.
21 tuổi đời phải chấp nhận một sự thật đắng cay mất đôi mắt. Rời quê nhà nghèo khó ra nước ngoà i học tập nuôi hoà i bão lớn, nay trở vử quê nhà trong tình trạng tà n tật. Tâm lý anh bị sốc nặng, trầm cảm, chán nản vô cùng. Đối với những người mù bẩm sinh họ có tinh thần ổn định, còn hơn 20 tuổi bỗng dưng bị mất ánh sáng, tôi cảm thấy như cả thế giới đang đổ sập dưới chân mình. Nhiửu lúc nghĩ, chán đời như không muốn sống nữa, đụng đến việc gì cũng phải phụ thuộc và o người khác.
Anh nhớ lại: Ngà y đó, Ban chấp hà nh Hội người mù huyện Phúc Thọ mới được thà nh lập. Họ tới mời tôi và o hội còn bị chửi mắng một trận tơi tả. Là con hiếm nên trưởng thà nh, tôi vẫn được gia đình chiửu chuộng, ít khi bắt là m những việc nặng. Khi không nhìn thấy gì nữa tôi mới cảm thấy sự tự lập rất cần thiết. à thức được vai trò mình là con trai duy nhất, sống sao còn là m gương cho mọi người để gánh vác công to việc lớn trong gia đình, tôi dần tỉnh ngộ và học cách tự chăm sóc mình. Lúc đầu tôi tự nấu ấm nước, nồi cơm cho đến tắm giặt, vệ sinh cá nhân... nhiửu việc của người sáng tôi cũng tự mà y mò lâu dần cũng là m được.
Anh tự học chữ Brai, sử dụng máy vi tính, truy cập internet, soạn thảo văn bản thà nh thạo và mở lớp dạy cho các hội viên cùng biết...
Bán tăm... mua và ng!
Thấy anh ngà y cà ng trưởng thà nh, vững và ng vử tâm lý, hai ông chú ở Sơn Tây mai mối một cô gái là nh lặn khoẻ mạnh cho anh bầu bạn. Cô nà y là bạn học với em con chú ở Thị xã Sơn Tây, sau nhiửu lần đến chơi và tìm hiểu, cô đồng cảm hoà n cảnh, đồng ý kết hôn với anh. Năm 1986 anh chị quyết định là m đám cưới. Một năm sau 1987, chị đã sinh cho anh một cậu con trai kháu khỉnh. Niửm vui có cậu con trai vừa đến cũng là lúc sóng gió khó khăn cuộc đời thường xuyên ghé thăm gia đình nhử của anh chị. Kinh tế gia đình eo hẹp, cuộc sống trầm dập phải chạy ăn từng bữa.
Thấy vợ con nheo nhóc khốn khổ, và o tháng 8/1993, anh tự nguyện xin tham gia sinh hoạt và o Hội người mù huyện Phúc Thọ hy vọng có chốn bấu víu lúc bần hà n. Anh được mọi người tín nhiệm giao trọng trách phó Chủ tịch Hội. Khi mới và o hội, anh được hướng dẫn học nghử thủ công chuyên là m chổi, tăm tre. Cuộc sống chật vật, anh bà n với vợ phải tích cực vừa tự là m ra chổi, tăm và tự mang đi bán. Những ngà y đầu anh chị đi bán ở những trường học quanh xã rồi trong huyện. Khi đã quen với việc bán chổi, tăm anh chị bắt đầu nảy sinh ý tưởng đi xa, sang cả những tỉnh khác để bán.
Nghĩ là là m, anh vử nhà lục tìm hết số vốn liếng sau ngà y cưới cộng với tiửn vay mượn anh em bạn bè mang đi mua một chiếc xe đạp đôi. Hằng ngà y, cứ 3 đến 4 giử sáng, hai vợ chồng lại nắm cơm vừng đạp xe vượt sông Hồng sang tận Phú Thọ đi gõ cửa mọi nhà bán tăm, chổi đến đêm khuya mới vử. Từ nhà anh đến bến phà hơn 10 km. Ngà y nắng cũng như mưa, mỗi khi trời tản sáng, người ta lại thấy một cô gái trẻ có hôm địu thêm đứa bé đử hửn tay xách nách mang những túi đồ hà ng, còn dắt díu thêm một anh chà ng mù gặp ai cũng líu ríu chà o bán tăm tre Tấm lòng và ng.
Trông thấy cảnh nheo nhóc đó mà nhiửu người xót xa ái ngại thương cảm cho gia đình nhử của đôi vợ chồng trẻ. Nhưng, cũng từ những ngà y gian khổ đó mà không ai nghĩ rằng, chính cuộc sống cơ hà n đã tôi luyện cho vợ chồng anh một nghị lực phi thường, quyết liệt vươn lên.
Cuộc vật lộn già nh giật miếng cơm manh áo vất vả như vậy của vợ chồng anh kéo dà i hơn 3 năm (từ những năm 1993 đến 1996). Nhưng ông trời không phụ ai bao giử; bao vất vả của anh chị cũng được đửn đáp xứng đáng. Có một bí mật chẳng ai biết rằng, bình quân sau một ngà y đi bán tăm tre vử, anh tiết kiệm mua được nửa chỉ và ng cất đi là m vốn.
Trong mấy năm sau dà nh dụm, anh đã xây nhà mới, ung dung có nhiửu tiửn mua sắm đầy đủ những thứ cần thiết trong gia đình như xe máy, ti vi... Từ đó, anh trở thà nh đại gia mù, nổi tiếng khắp vùng.
Anh nhớ lại: Dạo đó, người già trẻ nhử trong là ng đửu truyửn tai nhau câu: Cả là ng thua hết Tiến. Đi đâu, người là ng nói đến Tiến mù như nhắc tới huyửn thoại vử một con người có linh khí khát sống mãnh liệt. Đến năm 1996, lúc đó gia đình bớt cực, anh đang là m phó Chủ tịch Hội người mù huyện, anh hướng dẫn cho các hội viên đi bán tăng thu nhập còn anh ở nhà liên hệ mở rộng thị trường. Hằng năm anh vẫn duy trì tạo công việc ổn định cho 10- 15 lao động khiếm thị.
Còn nhớ năm 1998, có đoà n khách nước ngoà i vử thăm gia đình anh, cảm phục quyết tâm vươn lên số phận của anh, một vị khách người àšc giúp đỡ gia đình anh số tiửn bằng một con bê. Sau đó, anh mua một con bê cái, mấy năm sau anh có đà n bê. Với đà n bê ấy vợ chồng anh có thêm thu nhập, đủ tiửn nuôi hai con ăn học, thà nh tà i. Cậu con trai lớn của anh chị đã học xong đại học đang công tác ở Hà Nội, cô em út cũng sắp tốt nghiệp đại học. Khi nhắc vử thà nh quả lớn nhất của mình, anh không dấu nổi niửm tự hà o, hạnh phúc, chia sẻ: Bây giử tôi chỉ có hai đứa con là tà i sản lớn nhất cuộc đời. Ước nguyện của tôi nay thà nh sự thực là m sao các con không phải khổ như cha mẹ chúng.
Chủ tịch của người mù
Đến tháng 2/2004 anh được bầu giữ chức Chủ tịch Hội người mù huyện Phúc Thọ. Là m Chủ tịch, tôi tiếp thu chọn lọc những gì các đồng chí đi trước xây dựng đồng thời bổ sung những quy định mới phù hợp thực tiễn. Tôi rà soát, trong 143 hội viên có khoảng 40 hội viên thuộc diện nghèo còn lại trung bình. Tôi lên kế hoạch, những gì có khả năng trong tầm tay, mọi hoạt động chương trình từ thiện của các tổ chức, cá nhân tôi đửu ưu tiên cho những hộ nghèo, phụ nữ... Tôi nghĩ, muốn người mù thoát nghèo, tốt nhất tạo công việc cho họ. Năm 1997, tôi mở lớp đà o tạo nghử thủ công (là m chổi, tăm) cho 60 hội viên. Hiện nay do giá nguyên liệu đắt đử việc là m chổi đang tạm ngưng, chỉ duy trì là m tăm. Tăm của chúng tôi là m ra được bán đửu đặn cho các nhà trường trong huyện tăng thu nhập cho hội viên.
Người mù thường có cuộc sống tinh thần nghèo nà n; ít cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngoà i, cho nên, anh thà nh lập 3 câu lạc bộ để họ có sân chơi riêng. Mỗi câu lạc bộ là một môi trường đặc thù cho những người khiếm thị trao đổi thông tin. Câu lạc bộ đà n, hát dân ca; câu lạc bộ yêu thích chữ nổi (Brai) của người mù và câu lạc bộ tú lơ khơ. Mỗi câu lạc bộ khoảng 10 hội viên. Cứ và o ngà y 15 hà ng tháng, ai thích và o trong các câu lạc bộ sinh hoạt, hội sẽ cấp phí ăn trưa khoảng 20 nghìn đồng/1 người. Đến nay, các câu lạc bộ đã tồn tại được hơn 3 năm. Anh tự học chữ Brai, sử dụng máy vi tính, truy cập internet, soạn thảo văn bản thà nh thạo và mở lớp dạy cho các hội viên cùng biết...
Trước đây, huyện có 5 xã trắng (không có người mù), nay phát hiện thêm 2 xã. Chúng tôi đã có văn bản thà nh lập Hội đồng kiểm định mức độ khuyết tập ở cấp xã do đồng chí Chủ tịch các xã là m chủ tịch. Đây là cơ sở để xác định khuyết tật đồng thời nó sẽ giúp thuận tiện trong việc xây dựng cơ chế, chế độ chính sách và trợ cấp hà ng tháng với những người mù. Bản thân tôi sẽ không ngừng kêu gọi các nhà hảo tâm và đi xin máy vi tính tặng cho những hội viên ở các xã nghèo có nhu cầu thực tế - anh Tiến nói./.