Nông dân đang đứng ở đâu?
Xem ra câu chuyện tam nông đang được đưa ra bản thảo đúng là việc nóng bửng, có tính chiến lược bây giử. Đất nước hơn 70% là nông nghiệp, phần lớn người thà nh phố cũng từ nông nghiệp, nông thôn, nông dân mà ra. Nếu đời sống của hơn 70% dân số không được cải thiện, công cuộc mưu sinh còn trắc trở thì đất nước chưa thể cất cánh.
Tại sao ở một số nơi, chính quyửn thu đất của dân để là m khu công nghiệp, xây dựng sân golf nhằm tăng nguồn thu, tăng hiệu năng sử dụng đất đai mà nhiửu nơi người dân lại tử ra bất bình? Tại sao ngà y cà ng có nhiửu người dân phải đổ ra thà nh phố kiếm việc là m, lang thang với hai bà n tay trắng, không nghử cho những công việc không cố định, trong khi chính trên mảnh đất quê hương họ đang diễn ra những cuộc đổi thay công nghiệp hóa, các khu công nghiệp, nhà máy mọc lên? Suy cho cùng, nông dân đang đứng ở đâu trong công cuộc phố hóa xóm là ng nà y?
Nông dân nghèo ở Sóc Sơn
Giá cả tăng, dịch bệnh, thiên tai, người nông dân phải chịu trận đầu tiên. Gia sản phơi ra giữa đồng, cây lúa, củ khoai bén dễ xuống đất cũng lắm gian nan. Con cái học hà nh, lo đến tương lai, chi phí lắm khi vượt quá tầm tay. Thế nhưng có thửa ruộng trong tay, cũng còn cái mà bấu víu. Hẳn còn nhớ không quên, và o đầu năm 80, cuối năm 90 của thế kỉ trước, đất nước lâm và o cảnh khủng hoảng nghiêm trọng, nhưng cũng chính nhử có nông nghiệp, nông dân cứu cánh, đất nước không những thoát khửi khủng hoảng mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu đứng và o hạng thứ nhì thế giới.
Đặc biệt, trong cơn bão suy thoái toà n cầu mới đây, cũng nhử có nông nghiệp, nông dân mà đất nước ta vẫn đứng vững và phát triển. Nay đất lấy là m khu công nghiệp, ôm và i trăm triệu đửn bù để bó mình và o những ngôi nhà ống bốn bử bê tông, không vườn, không ruộng, không nghử nghiệp, nỗi lo đắng lòng; là m gì để sống? Có được ít tiửn đửn bù cả đời mơ không thấy, nhưng tiửn và o nhà khó như gió và o nhà trống, nếu không nghĩ tới chuyện mở mang cơ nghiệp lâu dà i thì họa hay là phúc? Doanh nghiệp đầu tư chỉ nhăm nhăm nhìn và o mảnh đất sinh lời mà không quan tâm đến đời sống của người chủ đất. Chính quyửn địa phương nhiửu khi chỉ say sưa với con số tăng trưởng (GDP) và nguồn thu ngân sách mà chưa với tới chuyện mưu sinh của người nông dân một nắng hai sương.
Không thiết tha đồng ruộng
Sóc Sơn chưa phải là địa phương mất nhiửu đất nông nghiệp, dẫn tới tình trạng dư thừa vử lao động như ở một số nơi. Song điửu đáng quan tâm là , hiện nay vẫn còn không ít người nông dân trong huyện không còn thiết tha, mặn mà với đồng ruộng (số nà y chủ yếu là lực lượng lao động chủ chốt trong gia đình). Sóc Sơn hiện có tổng số trên 60.000 hộ với 270.000 nhân khẩu, trong đó tỷ lệ là nông dân chiếm 95,15%. Mỗi năm trên địa bà n huyện có khoảng hà ng chục nghìn lao động đi là m việc tại các khu công nghiệp; đó là dấu hiệu đáng mừng, vì đã tạo được công ăn việc là m và thu nhập ổn định cho người lao động.
Khu công nghiệp Nội Bà i
Song, cũng là điửu thật đáng lo ngại, bởi thực chất trong tổng số lao động có việc là m như đã nêu ở trên thì chiếm tới 70% có tư tưởng và động cơ muốn được thoát ly khửi đồng ruộng để kiếm mỗi tháng trên dưới 1 triệu đồng. Thế nhưng họ đâu có biết được rằng, những tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường khi tuyển dụng công nhân và o các Công ty, cứ mỗi một hồ sơ phải mất từ 5-7 triệu đồng, để rồi thời gian chỉ trong vòng 6 tháng lại phải thôi việc, với lý do hết sức đơn giản: không đáp ứng được yêu cầu kĩ thuật nên phải thay người khác.
Anh Nguyễn Văn Bình, xã Quang Tiến chua xót nói với chúng tôi: Để xin được và o là m công nhân ở khu công nghiệp Nội Bà i, anh phải bán lợn, bán thóc và vay thêm một chỉ và ng nữa mới đủ tiửn nộp hồ sơ, nhưng mới đây lại phải thôi việc. Trong khi đó, đồng ruộng thì bị bử bê vì thiếu người trông nom chăm sóc, dẫn tới tình trạng năng suất cây trồng không cao; đến khi bước và o mùa vụ, các hộ phải chạy đôn chạy đáo thuê người cà y cấy, gặt hái, mỗi ngà y chi trả trên dưới 100.000 đồng/người. Như vậy, người nông dân chẳng những họ phải chịu nhiửu thiệt thòi mà vẫn rơi và o cái vòng luẩn quẩn, chưa tìm ra được lối thoát cho chính bản thân mình.
Bất cập trong phát triển kinh tế trang trại
Theo kết quả điửu tra, Sóc Sơn hiện có 6.630 ha đất lâm nghiệp. Đây là điửu kiện rất có lợi thế cho phát triển trồng trọt và chăn nuôi, nhất là phát triển kinh tế trang trại vừa và nhử. Hiện toà n huyện có tổng số 104 trang trại đạt tiêu chuẩn theo tiêu chí mới, với tổng diện tích sử dụng 600 ha, bình quân mỗi trang trại sử dụng 5,09 ha, nằm trên địa bà n 26 xã và thị trấn. Bên cạnh những mặt tích cực, kinh tế trang trại ở Sóc Sơn còn bộc lộ một số hạn chế như: giá trị sản phẩm hà ng hóa và mức thu nhập bình quân/1 ha canh tác còn thấp. Các mô hình trang trại hoạt động còn đơn điệu, kém hiệu quả.
Hầu hết các chủ trang trại đửu chọn hướng phát triển theo phương châm lấy ngắn nuôi dà i hoặc theo kinh nghiệm quảng canh nên chưa đủ tầm so với nguồn tà i nguyên dồi dà o hiện có. Nguyên nhân chính là do vẫn còn nhiửu bất cập chưa được tháo gỡ, đó là : Cho đến nay hầu hết các trang trại trên địa bà n huyện vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyửn sử dụng đất, chủ yếu là quử¹ đất có nguồn gốc từ giao đất, giao rừng, hoặc đất khai hoang tạo thà nh nên không thể nói đó là cơ sở pháp lý đối với một trang trại khi mà danh chưa chính, ngôn chưa thuận.
Một số chủ trang trại trong tay có hà ng chục ha đất đồi rừng, nay đã chuyển đổi một phần từ rừng bạch đà n sang trồng cây ăn quả, các chủ trang trại nói trên đửu có chung nguyện vọng muốn mở mang, phát triển trang trại theo quy mô vừa, kết hợp chăn nuôi và i chục con bò sinh sản để tận dụng nguồn thức ăn dồi dà o, thì ít nhất phải có hà ng trăm triệu đồng tiửn vốn, nhưng vì chưa có sổ đử thế chấp nên đà nh phải chịu bó tay...
Nông thôn mới là khâu đột phá
Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ vử nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở Sóc Sơn, trên cơ sở phát triển kinh tế-xã hội của huyện được đặt trong định hướng phát triển chung của Thủ đô, đảm bảo đúng quy hoạch. Huyện cần có quan điểm, định hướng rõ rà ng đối với phát triển tam nông theo hướng bửn vững. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tà i nguyên. Gắn công nghiệp hóa, đô thị hóa với phát triển nông nghiệp, nông thôn và chuyển dịch lao động trong nông nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết tốt các vấn đử bức xúc trong các vùng nông thôn.
Nông dân vét mương chống hạn
Trước hết, huyện cần phải có quy hoạch cơ bản và đồng bộ vử xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu định hướng phát triển trở thà nh đô thị vệ tinh của Thủ đô trên cơ sở đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; lấy nông dân là m trung tâm; lấy xây dựng nông thôn mới là m khâu đột phá, trong đó có hai vấn đử quan trọng nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn và đà o tạo nguồn nhân lực.
Để thực hiện mục tiêu trên, cần phải có các giải pháp đồng bộ đó là : Đầu tư cho phát triển nông nghiệp có trọng tâm, trọng điểm, trong đó tập trung cho công tác dồn điửn, đổi thửa; tổ chức lại và đầu tư theo quy hoạch các hệ thống: thủy lợi, giao thông nội đồng, phát triển mở rộng các vùng sản xuất rau an toà n, các dự án chăn nuôi tập trung, các vùng nuôi trồng thủy sản; tăng cường kinh phí cho công tác tập huấn và chuyển giao khoa học kĩ thuật, giống mới cho người nông dân nhằm là m chuyển biến một cách căn bản vử tư duy sản xuất cho nông dân theo hướng sinh thái hà ng hóa.
Phát huy lợi thế 3 vùng (đồi gò, đất trũng và đất giữa) để hình thà nh sản xuất chuyên canh, phát triển các mô hình kinh tế trang trại như: lâm nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, gia cầm tại vùng đồi gò, lúa và thủy sản ở vùng đất trũng ven sông, các cây công nghiệp ngắn ngà y, rau, hoa tại các vùng đất giữa phía Nam và trung tâm. Xây dựng một số thương hiệu sản phẩm gắn với lợi thế của từng địa phương như: chè, rau sạch, bò thịt, lợn nạc, gà đồi. Quy hoạch và kêu gọi đầu tư các điểm thu mua, cơ sở chế biến nông sản, cơ sở giết mổ tập trung, tạo điửu kiện thuận lợi cho tiêu thụ và quảng bá sản phẩm nông nghiệp.
Đặc biệt, trong điửu kiện diện tích đất nông nghiệp giảm do đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, nhưng vẫn phải giữ vững diện tích gieo trồng hà ng năm, kiên quyết không để mất đất nông nghiệp do các dự án không phải là trọng điểm để tránh hậu quả nông dân thiếu việc là m, an ninh lương thực bị đe dọa.