Như vậy, từ đời Lê đến đời Nguyễn, Nguyễn Trãi đã ba lần được minh oan. Tất cả những lần đó, Lê Nhân Tông rồi Lê Thánh Tông chỉ nhất nhất ca ngợi công lao và cuộc đời Nguyễn Trãi, mà không một lời nhắc đến Nguyễn Thị Lộ và vụ án thảm khốc. Nhân kỷ niệm 580 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, người Anh hùng dân tộc được nhân loại tôn vinh là Danh nhân Văn hóa Thế giới, xin được giới thiệu nguyên văn bài Chế và một bài thơ “Ngự chế” của Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi.
Thuận mệnh trời, theo vận nước, Hoàng thượng nói rằng: Ta vì muốn bắt chước phép nhà Ân mà trị nước để mở rộng cơ nghiệp của tổ tông, muốn dựa theo lệ nhà Chu mà ghi công để thực hiện trị an cho đất nước, cho nên cần làm việc ban cấp sắc phong, sửa sang phần mộ.
Xét vị công thần khai quốc trước kia được phong tước Trụ quốc Tán trù bá, đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu là Lê Trãi đem đạo học chân chính mà giúp việc nước nhà, vạch kế hoạch rộng lớn mà sửa nền thịnh trị. Trong buổi Tổ phụ ta khởi nghĩa ở Lam Sơn để gây dựng lại cơ đồ nước Việt, ông đã vào Lội Giang (2) theo quân, lập được nhiều thành tích tốt trong việc bình Ngô, danh vọng của ông vang lừng trong bốn bể, mưu lược của ông rõ rệt dưới hai triều(3). Dẫu rằng thời mệnh không đi đôi với nhau, khó biết được lẽ huyền bí; nhưng công lao của ông được ghi chép lâu ngày hiện còn thấy trong sổ sách. Trước kia ông đã được ban ân rất hậu, ngày nay càng nên tặng thưởng thêm. Vì lẽ đó, nay đổi tước Bá, tặng tước Hầu, vừa để biểu dương công lao cống hiến cho nước, vừa để nêu rõ đạo học cho đời.
Than ôi! Rồng hổ gió mây hội trước, tưởng lại tiền nhân. Văn chương sự nghiệp dấu xưa, truyền cho hậu thế.
Vậy gia phong tặng Trụ quốc Tế văn hầu (4), đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu.
(1) Do có công lớn trong Khởi nghĩa Lam Sơn nên Nguyễn Trãi được vua ban quốc tính, họ vua.
(2) Lội Giang, tên một khúc sông của phần trên sông Mã thuộc vùng Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
(3) Hai triều, tức hai đời vua nhà Hậu Lê: Lê Thái Tổ (1428 - 1433) và Lê Thái Tông (1433 - 1442)
(4) Tước phong triều Lê có 5 bậc: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Nguyễn Trãi được Lê Thái Tổ phong Tế Văn Hầu, xếp thứ hai.
BÀI THƠ NGỰ CHẾ*Phiên âm
Dư tĩnh tọa pháp cung hà tư kim tích quân minh thần lương dữ đương kim cơ nghiệp chi thịnh, ngẫu thành nhất luật
(Xuất “Quỳnh uyển cửu ca tập”, Hồng Đức nhị thập ngũ niên)
Cao đế anh hùng cái thế danh,
Văn hoàng trí dũng phủ doanh thành.
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo,
Võ mục hung trung liệt giáp binh.
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển,
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh.
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự,
Bát bách Cơ Chu lạc trị bình.
*Dịch nghĩa
Ta ngồi trong chính điện, hồi tưởng xưa nay vua sáng, tôi lành và cơ nghiệp thịnh vượng của nước nhà ngày nay ngẫu thành bài thơ.
(Trong tập “Quỳnh uyển cửu ca”, năm Hồng Đức thứ 25 - 1494)
Cao đế nổi tiếng anh hùng, trên đời không ai sánh kịp,
Văn hoàng trí dũng, kế thừa nghiệp lớn,
Ức Trai trong lòng rạng vẻ khuê tảo(1)
Võ Mục trong bụng chất chứa giáp binh(2)
Mười anh em họ Trịnh vẻ vang phú quý,
Hai cha con họ Thân cùng hưởng ân vinh,
Cháu hiếu tôn Hồng Đức kế thừa nghiệp lớn,
Vui hưởng cuộc trị bình tám trăm năm như đời Cơ Chu(3).
*Nguyên chú của tác giả:
Vua thái tổ Cao hoàng đế, dấu vết ở Lam Sơn, một khi kéo cờ khởi nghĩa, giặc Minh thua chạy, khôi phục đất nước, hai kinh vững vàng, hơn 20 thành mở cửa đầu hàng, dựng cơ nghiệp muôn năm, giải phóng trăm họ, lập thành công lớn, từ xưa chưa thấy.
Vua Thái tông Văn hoàng đế, kế thừa nghiệp lớn, trong lặng ngoài yên, văn giáo mở mang, vũ oai lừng lẫy, thóc gạo thừa thãi, nhân vật phồn thịnh.
Thừa chỉ Quan phục hầu Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, đậu khoa bảng đời Hồ. Khi Thánh tổ mới mở cơ nghiệp, theo về nơi Lội Giang, bên trong thì trù tính phương lược, bên ngoài thì thảo văn thư chiếu dụ các thành, văn chương giúp nước, rất được tín nhiệm.
Tư mã Lê Khôi, thụy là Võ Mục, cháu gọi Thái tổ Cao hoàng bằng chú, thâm trầm hùng dũng, tài lược hơn người, đánh quân Minh tới đâu, được đấy, trấn thủ thành Thuận Hóa(4), người Chiêm Thành khiếp sợ.
Thái úy Trịnh Khả, con là Trịnh Bá Quát, Trịnh Công Lộ, Trịnh Công Ngộ, Trịnh Đạt, Trịnh Quý Thuật, Trịnh Quý Địch, Trịnh Hựu, Trịnh Giang. Anh em hơn 10 người, đều làm quan, rất là quý hiển.
Thân Nhân Trung, con là Thân Nhân Tín, trước sau nối gót, khoa bảng đậu cao. Nhân Trung quan nhị phẩm, chức luận ân. Nhân Tín giữ chức từ lâm, vào hàng Ngọc thự(5).
.......................................................................................
Chú thích
(1) Khuê tảo: Khuê là sao Khuê, tảo là cỏ tảo, tượng trưng cho văn chương
(2) Giáp binh trong bụng: chỉ người có nhiều mưu lược, giỏi cầm quân
(3) Cơ- Chu: Thời cổ đại Trung Quốc, nhà Thành Chu họ Cơ, truyền nghiệp làm vua được 800 năm, câu này ý nói cơ nghiệp trị bình lâu dài
(4) Thuận Hóa: Chỉ đất từ Quảng Trị, Thừa Thiên trở vào
(5) Từ lâm, Ngọc thự: Đều là biệt danh của Viện hàn lâm
*Nhóm Lê Quý Đôn dịch thơ
Cao đế anh hùng dễ mấy ai,
Văn hoàng trí dũng kế ngôi trời.
Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng.
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy.
Mười Trịnh vang lừng nền phú quý,
Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai.
Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn trước,
Cơ nghiệp Thành Chu vận nước dài.
(Trích “Hoàng Việt thi văn tuyển”, tập II và tập III, NXB Văn hóa - Hà Nội 1958).