Một người tài tình như Nguyễn Du, một người xinh tươi, trẻ trung, hay chữ như Xuân Hương khó mà không cảm nhau, vấn vương nhau không thể dứt!
GS Hoàng Xuân Hãn bình luận: “Tuy bút chứng không muốn trỏ là ai, nhưng lấy mọi bằng chứng mà suy, thì tôi đoán đó là Xuân Hương, có lẽ là hơp lí.
Dẫu sao, nếu Hầu còn quen một cô gái hồ Tây nào khác nữa, thì tình duyên giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương vẫn là có thật. Nó kéo dài ba năm vẹn theo lời Xuân Hương, mà nàng than là ngắn ngủi không tiếng dội”. (Dẫn từ Đào Thái Tôn - Hồ Xuân Hương tiểu sử văn bản tiến trình huyền thoại dân gian hóa, Nxb Hội Nhà văn, 1999, tr.229).
Chúng tôi xin lưu ý rằng GS Hoàng Xuân Hãn và cả TS Đào Thái Tôn đã bỏ qua một chi tiết hết sức quan trọng khi bình luận về 5 bài Mộng đắc thái liên của Nguyễn Du cùng với bài thơ của Hồ Xuân Hương viết cho Nguyễn Du. Khá chắc chắn rằng khi Nguyễn Du cùng Hồ Xuân Hương hái sen, tiên sinh đã làm bài Mộng đắc thái liên gửi người mình yêu mến. Và chúng tôi đoán rằng Nguyễn Du đã kín đáo tặng gương sen cho nàng nên viết “Hoa dĩ tặng sở úy/ Thực dĩ tặng sở liên - Hoa để tặng người mình sợ/ Gương để tặng người mình thương”. Vì có tặng bài Mộng đắc thái liên cho nàng, bởi thế cho nên khi Xuân Hương viết cho Nguyễn Du về sau này, nàng đã kín đáo và khéo léo nhắc lại Mộng ở Mộng đắc thái liên trong câu thơ “Giấc Mộng rồi ra nửa khắc không” về chuyện tình của hai người.
Một cảnh trong phim "Đại thi hào Nguyễn Du" của đạo diễn Nguyễn Văn Đức.
Dưới đây là bài thơ của Hồ Xuân Hương viết về Nguyễn Du:
Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn hầu (1)
(Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ thương
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương siu mấy (2)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong
TS Đào Thải Tôn chú:
Nhớ bạn cũ, viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu
Sương siu mấy. Ba chữ này từ lâu đều được phiên âm là “sương đeo mái”. Nay phiên theo GS Hoàng Xuân Hãn. Xem thêm về sự phiên âm ba chữ này ở phần chuyên luận. (Vũ Nho chú - GS Hoàng Xuân Hãn giải thích rằng Trần Thanh Mại và Nguyễn Lộc đều đã phiên âm “sương đeo mái”. Hồ Tuấn Niêm chữa âm đeo ra treo. Cả hai thoại đều vô nghĩa hoặc phải ép nặn mới hơi có nghĩa. Đây là thành ngữ cổ, chữ Nôm có thể đọc là “sương siêu” hay “sương siu”. Căn cứ vào 3 ví dụ GS đã gặp trong Thiên Nam Ngữ lục và tuồng Thù Thế Tân Thanh, theo ý mà suy, sương siu nghĩa là bịn rịn).
Kèm theo là lời bình của GS Hoàng Xuân Hãn:
“Trong đề mục, gọi Nguyễn Du là Hầu Cần Chánh. Vậy thơ này làm sau tháng 2 năm Quý Dậu (1813).
Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền cho biết rõ rằng, mùa đông năm trước, Nguyễn Du được triệu từ Quảng Bình về Huế, tháng hai năm sau, được thăng Cần Chánh điện học sĩ, rồi được chọn làm chánh sứ đi tuế cống triều Thanh. Có lẽ tin này đồn đến Thăng Long đã nhắc cho Xuân Hương nhớ chàng năm xưa từng đã dan díu với mình trong ba năm rồi vào kinh tuyệt không tin tức. Nay được vinh dự ra đi sứ mà mình số phận vẫn long đong. Nàng mừng cho Hầu và có lẽ ước thầm Hầu còn nhớ tình xưa và trên đường đi sứ qua Thăng Long, Hầu ghé bước lại nhà thăm hỏi kẻo ở Cổ Nguyệt đường nàng vẫn “Năm canh chiếc bóng chong”. Cuối xuân năm ấy, Hầu qua Thăng Long, các quan Bắc thành đặt tiệc tiễn sứ ở nha Tuyên Vũ, Hầu chợt nghe tiếng đàn nguyệt quen tai từ một cô đầu già trong bóng tối bay ra, mà Hầu nhớ đã nghe 20 năm về trước ở nhà anh, bên Giám hồ, đời Tây Sơn. Hầu hỏi thì cô đầu ấy chính là người mà hầu đã thấy trộm khi trẻ, mà là một nhạc nữ cũ trong cung vua Lê. Hầu lòng trữ tình vẫn nặng cho nên, ngày nay ta còn được có thiên kiệt tác Bài ca người gẩy đàn đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca). Với tính tình và trường hợp như thế, Nguyễn Du lúc ấy khó mà quên được Xuân Hương. Nhưng bây giờ Hầu là một quan to phụng sứ; vả lại bây giờ Hầu đã 48 tuổi (sinh năm 1765). Ra làm quan triều Nguyễn, Hầu lại giữ thái độ rất cẩn thận, dè dặt. Vậy không thể đáp mộng Xuân Hương. Nhưng biết đâu Hầu không nghĩ tới?”
(Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, trang 227 - 228)
Ngoài bài thơ Hồ Xuân Hương đề rõ gửi Cần chánh Nguyễn Hầu, còn có một bài thơ khác kín đáo hơn, đó là bài Chơi hồ Tây nhớ bạn. Bài này có trong bản chép của Landes năm 1893:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao giờ
Nhật Tân đê lở nhưng còn lối
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ
Nọ vực Trâu Vàng trăng lạt bóng
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy
So dạ hoài nhân chửa dễ vơi.
“GS Hoàng Xuân Hãn cho rằng: đọc thơ này “phảng phất như nghe Xuân Hương nhớ bạn đồng châu Nguyễn Du ngày xưa hẹn cùng nhau đi hái sen”. (Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, trang 321).
Không còn nghi ngờ gì, Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương có giao du với nhau, quyến luyến nhau, nhưng mối tình không đi đến hôn nhân. Các bài thơ của Nguyễn Du Mộng đắc thái liên và bài của Hồ Xuân Hương Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu là chứng tích của mối tình tài tử giai nhân đó.