Bắn lọt cửa sổ từ khoảng cách cả ngà n cây số
Không phải ngẫu nhiên mà tên lửa Tomahawk được mệnh danh là 'sứ giả chiến tranh' vì thứ vũ khí chính xác nà y luôn giữ vai trò mở mà n khi Mử¹ muốn tuyên chiến với một quốc gia hoặc phát động tấn công nhằm thay đổi chế độ ở một quốc gia nà o đó.
Các chuyên gia quân sự đánh giá tên lửa Tomahaw là thứ vũ khí cách mạng tạo ra bước ngoặt thay đổi quy luật của chiến tranh hiện đại. Nếu trong các cuộc chiến tranh ở Triửu Tiên và Việt Nam, không quân và bộ binh Mử¹ từng phải chịu những tổn thất nặng nử vử người và phương tiện thì nay với Tomahawk luật chơi đã thay đổi. Chỉ cần ngồi một nơi an toà n cách xa chiến trường hà ng ngà n cây số, nhấn nút phóng tên lửa Tomahawk có thể bắn lọt qua cửa sổ một tòa nhà mục tiêu.
Chính vì vậy, hà ng trăm quả Tomahawk luôn khai hửa trận chiến trước tiên, tiêu diệt hoặc là m tê liệt các mục tiêu quan trọng có giá trị cao của đối phương. Sau khi kẻ địch đã gần như bị đánh quửµ, không còn khả năng chống trả hoặc nếu có cũng vô cùng yếu ớt thì các lực lượng khác của Mử¹ và đồng minh mới và o cuộc, giải quyết chiến trường một cách dễ dà ng.
Phóng tên lửa Tomahawk từ dưới tà u ngầm.
Và o những năm 1970x, Lực lượng Hải quân Xô Viết đã trở thà nh lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới vử vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu trên biển lớn. Các tà u tuần dương dự án thiết kế 58, tà u khu trục dự án thiết kế 61, tà u ngầm nguyên tử dự án thiết kế 675, được biên chế các tên lửa hà nh trình có khả năng tiêu diệt hầu hết các át chủ bà i (tà u sân bay Mử¹) như P-35 (tầm bắn “ 350 km), P-15 (tầm bắn “ 85 km), P-5D (tầm bắn 500 km). Cấu trúc của các tà u tên lửa với vũ khí trang bị trên tà u đã gây sự kinh hoà ng và hoảng loạn đến căm thù của các lực lượng Hải quân Bắc Đại Tây Dương, tạo lên những viễn cảnh đáng sợ từ phía Hải quân Xô Viết.
Tất cả các chiến hạm của Mử¹ và NATO đửu được chế tạo từ thời kử³ đại chiến thế giới thứ 2, vũ khí tác chiến trên biển chủ yếu là máy bay, pháo hạm hạng nặng và ngư lôi. Đến thời điểm đó, vũ khí trên biển của Phương Tây thật sự là đã lỗi thời, ngoại trừ các tà u ngầm nguyên tử mang tên lửa hạt nhân của Mử¹ - hoà n toà n mang tính chiến lược và gắn bó với NATO chỉ trên phương diện hình thức, đồng thời có hai chiến hạm “ tầu tuần dương tên lửa chạy bằng năng lượng nguyên tử URO "Long Beach" tà u sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử "Enterprise" còn tương đối được coi là hiện đại.
Và o năm 1971 Bộ tư lệnh lực lượng Hải quân Mử¹ khởi động chương trình nghiên cứu phát triển tên lửa hà nh trình chiến lược dà nh cho các tà u ngầm hạt nhân chiến lược. Thời điểm ban đầu, các nhà nghiên cứu đử xuất 2 phương án tên lửa hà nh trình.
Phương án 1: Chế tạo tên lửa hà nh trình lớn có đường kính đến 55 inch , sử dụng hệ thống máy phóng tên lửa đạn đạo "Polaris" UGM-27, được loại bử từ lực lượng tên lửa. Phương án nà y có kế tên lửa hà nh trình hạng nặng có tầm bắn rất lớn “ đến 3.000 hải lý và bố trí các tên lửa nà y trên hơn 10 tà u ngầm nguyên tử lớp "George Washington" và "Eten Allen" trong các ống phóng tên lửa đạn đạo Polaris. Như vậy, các tà u ngầm nguyên tử nà y sẽ được trang bị các tên lửa hà nh trình hạng nặng cấp chiến lược. Phương án 2: Tên lửa hà nh trình hạng nhẹ cấp chiến thuật, có đường kính 21 inch tầm bắn đến 1.500 hải lý được phóng bằng ống phóng ngư lôi 533-mm của tà u ngầm.
Và o tháng 7.1972, phương án tên lửa hà nh trình phóng bằng ống phóng ngư lôi được duyệt. Chương trình có tên là SLCM (Sea Launched Cruise Missile) ” tên lửa có cánh phóng từ các phương tiện mang trên biển. Và o tháng 1.1976 đã lựa chọn 2 phương án có tính khả thi rất cao nhằm mục đích đưa và o thử nghiệm cạnh tranh. Thiết kế 1 của hãng General Dynamics: ракета UBGM-109A, thiết kế 2 của hãng LTV: Tên lửa UBGM-110A. Tháng 2.1976, bắt đầu thử nghiệm các nguyên mẫu tên lửa được phóng từ tà u ngầm dưới nước. Tên lửa BGM-109A là người chiến thắng ở giai đoạn đầu của thử nghiệm.
Tháng 3.1976, Bộ tổng tham mưu lực lượng Hải quân Mử¹ đã quyết định, SLCM sẽ là vũ khí tấn công cơ bản cấp chiến dịch “ chiến thuật và cũng là tên lửa cấp chiến lược của các chiến hạm nổi. Tháng 4.1980 thử nghiệm bay lần thứ nhất tên lửa hà nh trình BGM-109A, tên lửa được phóng từ tà u khu trục Mử¹ Merrill (DD-976). Tháng 6.1976 đã tiến hà nh thử nghiệm thà nh công phóng tên lửa từ tà u ngầm. Sự kiện nà y đã trở thà nh quen thuộc trong lịch sử phát triển vũ khí tên lửa trên biển: Tên lửa hà nh trình cấp chiến lược được phóng từ tà u ngầm Hải quân Mử¹ Guitarro SSN-665. Trong vòng 3 năm liên tục đã tiến hà nh phóng thử nghiệm hơn 100 tên lửa. Tháng 04.1983, đại diện Hải quân Mử¹ tuyên bố: "Tên lửa đã đạt được các tiêu chuẩn khai thác sử dụng, sẵn sà ng được đưa và o biên chế trong lực lượng vũ trang".
Phóng tên lửa BGM-109 trên tà u tuần dương tên lửa "Ticonderoga".
BGM-109 Тomahawk ” tên lửa hà nh trình có cánh được phóng từ các phương tiện mang trên biển, trên không và trên mặt đất. Tên lửa được thiết kế theo mẫu máy bay cánh đơn “ thân tên lửa là ống trụ tròn, hai cánh chính có thể gấp lại và được lắp ở trọng tâm tên lửa và bốn cánh ổn định đuôi hình chữ thập. Thân tên lửa được chế tạo từ hợp kim nhôm, một số các bộ phận và bử mặt khí động học của tên lửa được chế tạo từ nhựa tổng hợp graphite-epoxy và trong suốt đối với các sóng radio. Để giảm độ phản xạ hiệu dụng, trên thân tên lửa, cánh tên lửa và bộ cánh ổn định đuôi, trên thân tên lửa được sơn phủ bằng lớp vật liệu hấp thụ sóng radar.
Tên lửa được phân chia thà nh 6 khoang: khoang thứ nhất “ thiết bị của hệ thống điửu khiển tên lửa và dẫn đường mục tiêu; khoang thứ 2 “ đầu đạn với bộ phận khóa an toà n và bộ phận kích nổ đạn, khoang thứ 3 “ thùng nhiên liệu thứ 1; khoang thứ 4- đường dẫn động bộ phân mở cánh, thùng nhiên liệu thứ 2 và thứ 3 (thể tích toà n bộ các thùng nhiên liệu là 600 kg JP-9),khoang thứ 5: đầu hút không khí và pin nhiệt điện, khoang thứ 6: động cơ hà nh trình và các đường dẫn động cánh ổn định và cánh lái đuôi tên lửa. kết nối với khoang nà y là động cơ tăng tốc tên lửa nhiên liệu rắn Atlantic Research Mk 106 có lực đẩy là 26,7 kN (6000 pound) và thời gian hoạt động là 12 s.
Trong tên lửa được lắp đặt động cơ phản lực cánh quạt đẩy turbofan kích thước nhử có khối lượng là 58 kg, chiửu dà i 0.94 m, đường kích 0,305m DTRD Williams F107 ” WR-400 Ñ‚Ñгой 2.7 kN (272 kg). Hệ thống điửu khiển và tự dẫn tên lửa hà nh trình là một tổ hợp 3 hệ thống thứ cấp xếp lần lượt, để hệ thống thứ cấp tiếp theo sửa lỗi của hệ thống trước.
Hội tụ công nghệ đỉnh cao
Tomahawk hội tụ nhiửu công nghệ đỉnh cao của thế giới trong việc dẫn đường, chỉ thị và tấn công mục tiêu. Hệ thống dẫn đường của Tomahawk có thể coi là một chuẩn mực đối với tên lửa hà nh trình hiện đại. Cơ chế dẫn đường của Tomahawk rất phức tạp và phối hợp nhiửu công nghệ dẫn đường khác nhau, các hệ thống nà y bổ sung cho nhau nhằm tăng độ chính xác khi tác chiến.
Hệ thống thứ cấp 1 “ Hệ thống dẫn đường quán tính, hoạt động trong giai đoạn đầu và giai đoạn giữa của quử¹ đạo đường bay tên lửa TAINS (TERCOM Assisted Inertial Navigation System) có khối lượng 11 kg. Hệ thống bao gồm máy tính điện tử, hệ thống hạ tầng quán tính và thiết bị đo độ cao bằng áp suất khí quyển. Hệ thống hạ tầng quán tính dạng Strapdown INS bao gồm 3 con quay tự do đo tốc độ góc và 3 bộ gia tốc kế. Hệ thống duy trì khả năng dẫn đường với độ sai lệch không quá 1 m trên 1 km đường bay.
Hệ thống thứ 2: Hệ thống so sánh tương quan hình thể địa hình theo mặt cắt thẳng đứng của công ty McDonnell Douglas AN/DPW-23 TERCOM (Terrain Contour Matching), hệ thống hoạt động ở giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của quử¹ đạo bay tên lửa. Hệ thống bao gồm máy tính điện tử, thiết bị radar đo độ cao. Trong máy tính điện tử trên ổ cứng lưu trữ các mảnh bản đồ kử¹ thuật số địa bà n, nơi tên lửa sẽ bay qua. Độ rộng của tia radar khoảng từ 13 “ 15 độ ( tần số 4 “ 8 GHz). Nguyên tắc là m việc của hệ thống được dựa trên cơ sở so sánh địa hình của khu vực, nơi đang có mặt tên lửa hà nh trình tham chiếu với các mảnh bản đồ mẫu mẫu tiêu chuẩn trên quử¹ đạo tên lửa bay.
Xác định địa hình chuẩn được thực hiện bằng các thông số của chùm tia quét radio và thiết bị đô độ cao áp suất khí quyển. Thiết bị đầu tiên đo khoảng cách từ tên lửa đến mặt đất (độ cao thực), thiết bị thứ hai đo độ cao bay với mặt biển. Thông tin địa hình được lưu trữ trong bộ nhớ máy tính, phần mửm sẽ so sánh với những thông số thực tế thu được từ địa hình thực. Máy tính sẽ đưa ra các thông số để điửu chỉnh hệ thống dẫn đường quán tính. Toà n bộ quử¹ đạo đường bay của tên lửa trên đất liửn được chia ra là m 64 ô điửu chỉnh với chiửu dà i đến 8 km và chiửu rộng từ 2 đến 48 km.
Hệ thống thứ 3 ”Hệ thống so sánh điện tử - quang học AN/DXQ-1 DSMAC (Digital Scene Matching Area Correlation), hệ thống cho phép tên lửa đánh trúng mục tiêu với độ sai lệch “ 10 m. Hệ thống sử dụng ảnh kử¹ thuật số trên nửn tảng quang ảnh và ảnh hồng ngoại, những bức ảnh kử¹ thuật số nà y được chụp liên tiếp trên quử¹ đạo đường bay của tên lửa. Hệ thống DSMAC bắt đầu là m việc ở giai đoạn cuối của quử¹ đạo tên lửa, sau khi hệ thống TERCOM. Camera sẽ tiến hà nh rà quét khu vực mục tiêu, các hình ảnh thu được được đưa và o máy tính điện tử, phần mửm máy tính sẽ so sánh với các chuẩn khu vực mục tiêu, được lưu trữ trong ổ cứng. Các sai lệnh sẽ được chuyển thà nh lệnh sang hệ thống điửu khiển hiệu chỉnh lại quử¹ đạo bay của tên lửa.
Hệ thống định vị vệ tinh GPS ” cung cấp thông tin chính xác vử vị trí của tên lửa trên quử¹ đạo bay. Sự ưu việt của tên lửa Tomahawk còn ở chỗ nó có thể cập nhật thông tin vử mục tiêu từ nhiửu phương tiện giám sát khác nhau (từ máy bay, UAV, vệ tinh, bộ binh, xe tăng, tà u chiến...). Điửu nà y là biểu hiện thực tế của học thuyết mạng lưới trung tâm chiến tranh, một ứng dụng công nghệ thông tin trong tác chiến được Mử¹ khởi xướng và o những năm 1990. Tomahawk có thể bay rất thấp và linh hoạt như một máy bay, cùng với thân hình nhử gọn nên nó rất khó bị phát hiện bởi các radar mặt đất. Việc phát hiện tên lửa bằng các biện pháp dò tìm hồng ngoại cũng rất khó khăn. Tên lửa có tốc độ cận âm cùng với động cơ phản lực cánh quạt chạy rất êm nên độ bộc lộ bức xạ hồng ngoại không cao.
Với tất cả tiến bộ công nghệ, Tomahawk đạt độ chính xác gần như tuyệt đối. Trong chiến dịch 'Bão táp sa mạc' chống Iraq, một số khách du lịch đã vô cùng sửng sốt khi thấy một quả tên lửa Tomahawk bay bám theo con đường mà họ đang đi ở độ cao rất thấp để tránh radar phát hiện, tiếp cận mục tiêu đã được nạp lệnh trong bộ nhớ của nó.
'Chấp' mọi hệ thống phòng không
Tomahawk là tên lửa hà nh trình tầm xa, đa nhiệm, có thể phóng từ các phương tiện mang khác nhau trên không, trên biển, trên đất liửn và dưới đại dương. Nhà sản xuất: Công ty Raytheon Missile Systems; Động lực: Sử dụng động cơ turbofan (động cơ phản lực cánh quạt đẩy) Williams International F107-WR-402 và động cơ tăng tốc phản lực nhiên liệu rắn; Kích thước: dà i 18 feet 3 inches (5.56 m); với động cơ tăng tốc : 20 feet 6 inches (6.25 m). Đường kính: 20.4 inches (51.81 cm). Sải cánh: 8 feet 9 inches (2.67 m); Khối lượng: 2,650 pounds (1192.5 kg); 3,200 pounds (1440 kg) với động cơ phản lực tăng tốc;Tốc độ bay: Cận âm 880 km/h;
Tầm bắn của Tomhawk từ 1.300-2.500km tùy biến thể, có thể nhắm trúng các mục tiêu cố định hoặc bán cố định với bán kính lệch mục tiêu (CEP) chỉ 3-5m. Tên lửa được trang bị đầu đạn thuốc nổ nặng 450kg đủ sức công phá mọi công sự phòng ngự kiên cố nhất (hoặc có thể lắp đầu đạn hạt nhân khi cần). Tomahawk có thể tấn công mục tiêu theo kiểu bổ nhà o từ trên cao xuống, tấn công từ bên hông hoặc nổ từ trên cao tạo xung lực phá hủy các mục tiêu trên mặt đất với bán kính rất lớn.
Robert Aldridge - Kử¹ sư cao cấp General Dynamics - mô tả sản phẩm của mình trên tạp chí "The Nation" bà i viết "Lầu Năm Góc trên đường chiến tranh", từ ngà y 27.3.1982: Phương án chiến lược của tên lửa được tính sao cho, với vận tốc 0,7M tên lửa bay được một quãng đường xa nhất trên độ cao 20000 ft (6096m). Trong giai đoạn nà y tên lửa tiết kiệm được nhiửu nhiên liệu nhất và bay được khoảng cách xa nhất. Hệ thống dẫn đường quán tính điửu khiển tên lửa ở chế độ bay autopilot, liên tục được điửu chỉnh bởi hệ thống TERCOM. TERCOM có thể điửu chỉnh tên lửa bay theo quử¹ đạo đặt trước với độ chính xác rất cao, cùng với hệ thống quang điện tử DSMAC ở giai đoạn cuối của đường bay, cho phép tên lửa đánh trúng mục tiêu với sai lệch rất nhử.
Khi tên lửa tiếp cận không gian phòng ngự của đối phương, tên lửa sẽ hạ xuống độ cao rất thấp, từ 30 m đến 130 m, với khả năng tà ng hinh (công nghệ stealth), tên lửa có khả năng vượt qua mọi hệ thống phòng không hiện đại nhất. Khi khoảng cách đến mục tiêu còn khoảng 50 hải lý (80,5 km) tên lửa sẽ hạ độ cao xuống còn 15 m so với địa hình và tăng tốc độ lên đến 1,2 M để tấn công mục tiêu, các phương thức tấn công mục tiêu theo sự lựa chọn của yêu cầu nhiệm vụ, tính chất mục tiêu và khả năng bảo vệ.
Do đặc điểm tên lửa được chế tạo trong thời kử³ chiến tranh lạnh, đối tượng tác chiến chính là Lực lượng quân đội Xô Viết, do đó, tên lửa có thể mang được đầu đạn hạt nhân. Sau nà y, tên lửa Tomahawk đã có nhiửu biến thể đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ của chiến tranh và xung đột khu vực. Tên lửa Tomahawk được sử dụng trên nhiửu phương tiện mang khác nhau, và có thể tấn công nhiửu mục tiêu khác nhau trên biển, trên đất liửn. Chẳng hạn, tà u ngầm hạt nhân chiến lược Ohio chuyển đổi mang tới 154 quả tên lửa Tomahawk, đủ để bất kử³ quốc gia nà o muốn thách thức Mử¹ phải rùng mình khi chiến hạm nà y lại gần.