Tomahawk - Sứ giả chiến tranh kinh hoà ng của Mử¹

Tin tức - Ngày đăng : 15:15, 23/05/2013

(NHN) Trong các cuộc chiến gần đây nhằm và o Iraq, Afghanistan hay Libya, trước tiên Mử¹ bao giử cũng phát động tấn công bằng tên lử­a hà nh trình Tomahawk từ các tà u khu trục và  tà u ngầm nguyên tử­ cách xa hà ng ngà n km...

Bắn lọt cử­a sổ từ khoảng cách cả ngà n cây số

Không phải ngẫu nhiên mà  tên lử­a Tomahawk được mệnh danh là  'sứ giả chiến tranh' vì thứ vũ khí chính xác nà y luôn giữ vai trò mở mà n khi Mử¹ muốn tuyên chiến với một quốc gia hoặc phát động tấn công nhằm thay đổi chế độ ở một quốc gia nà o đó.

Các chuyên gia quân sự đánh giá tên lử­a Tomahaw là  thứ vũ khí cách  mạng tạo ra bước ngoặt thay đổi quy luật của chiến tranh hiện đại. Nếu trong các cuộc chiến tranh ở Triửu Tiên và  Việt Nam, không quân và  bộ binh Mử¹ từng phải chịu những tổn thất nặng nử vử người và  phương tiện thì nay với Tomahawk luật chơi đã thay đổi. Chỉ cần ngồi một nơi an toà n cách xa chiến trường hà ng ngà n cây số, nhấn nút phóng tên lử­a Tomahawk có thể bắn lọt qua cử­a sổ một tòa nhà  mục tiêu.

Chính vì vậy, hà ng trăm quả Tomahawk luôn khai hửa trận chiến trước tiên, tiêu diệt hoặc là m tê liệt các mục tiêu quan trọng có giá trị cao của đối phương. Sau khi kẻ địch đã gần như bị đánh quửµ, không còn khả năng chống trả hoặc nếu có cũng vô cùng yếu ớt thì các lực lượng khác của Mử¹ và  đồng minh mới và o cuộc, giải quyết chiến trường một cách dễ dà ng.

Phóng tên lử­a Tomahawk từ dưới tà u ngầm. 

Phóng tên lử­a Tomahawk từ dưới tà u ngầm. 

Và o những năm 1970x, Lực lượng Hải quân Xô Viết đã trở thà nh lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới vử vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu trên biển lớn. Các tà u tuần dương dự án thiết kế 58, tà u khu trục dự án thiết kế 61, tà u ngầm nguyên tử­ dự án thiết kế 675, được biên chế các tên lử­a hà nh trình có khả năng tiêu diệt hầu hết các át chủ bà i (tà u sân bay Mử¹) như P-35 (tầm bắn “ 350 km), P-15 (tầm bắn “ 85 km), P-5D (tầm bắn 500 km). Cấu trúc của các tà u tên lử­a với vũ khí trang bị trên tà u đã gây sự kinh hoà ng và  hoảng loạn đến căm thù của các lực lượng Hải quân Bắc Аại Tây Dương, tạo lên những viễn cảnh đáng sợ từ phía Hải quân Xô Viết.

Tất cả các chiến hạm của Mử¹ và  NATO đửu được chế tạo từ thời kử³ đại chiến thế giới thứ 2, vũ khí tác chiến trên biển chủ yếu là  máy bay, pháo hạm hạng nặng và  ngư lôi. Аến thời điểm đó, vũ khí trên biển của Phương Tây thật sự là  đã lỗi thời, ngoại trừ các tà u ngầm nguyên tử­ mang tên lử­a hạt nhân của Mử¹ - hoà n toà n mang tính chiến lược và  gắn bó với NATO chỉ trên phương diện hình thức, đồng thời có hai chiến hạm “ tầu tuần dương tên lử­a chạy bằng năng lượng nguyên tử­ URO "Long Beach" tà u sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử­ "Enterprise" còn tương đối được coi là  hiện đại.

Và o năm 1971 Bộ tư lệnh lực lượng Hải quân Mử¹ khởi động chương trình nghiên cứu phát triển tên lử­a hà nh trình chiến lược dà nh cho các tà u ngầm hạt nhân chiến lược. Thời điểm ban đầu, các nhà  nghiên cứu đử xuất 2 phương án tên lử­a hà nh trình.

Phương án 1: Chế tạo tên lử­a hà nh trình lớn có đường kính đến 55 inch , sử­ dụng hệ thống máy phóng tên lử­a đạn đạo "Polaris" UGM-27, được loại bử từ lực lượng tên lử­a. Phương án nà y có kế tên lử­a hà nh trình hạng nặng có tầm bắn rất lớn “ đến 3.000 hải lý và  bố trí các tên lử­a nà y trên hơn 10 tà u ngầm nguyên tử­ lớp "George Washington" và  "Eten Allen" trong các ống phóng tên lử­a đạn đạo Polaris. Như vậy, các tà u ngầm nguyên tử­ nà y sẽ được trang bị các tên lử­a hà nh trình hạng nặng cấp chiến lược.  Phương án 2: Tên lử­a hà nh trình hạng nhẹ cấp chiến thuật, có đường kính 21 inch tầm bắn đến 1.500 hải lý được phóng bằng ống phóng ngư lôi 533-mm của tà u ngầm.

Và o tháng 7.1972, phương án tên lử­a hà nh trình phóng bằng ống phóng ngư lôi được duyệt. Chương trình có tên là  SLCM (Sea Launched Cruise Missile) ” tên lử­a có cánh phóng từ các phương tiện mang trên biển. Và o tháng 1.1976 đã lựa chọn 2 phương án có tính khả thi rất cao nhằm mục đích đưa và o thử­ nghiệm cạnh tranh. Thiết kế 1 của hãng General Dynamics: ракета UBGM-109A, thiết kế 2 của hãng LTV: Tên lử­a UBGM-110A. Tháng 2.1976, bắt đầu thử­ nghiệm các nguyên mẫu tên lử­a được phóng từ tà u ngầm dưới nước. Tên lử­a BGM-109A là  người chiến thắng ở giai đoạn đầu của thử­ nghiệm.

Tháng 3.1976, Bộ tổng tham mưu lực lượng Hải quân Mử¹ đã quyết định, SLCM sẽ là  vũ khí tấn công cơ bản cấp chiến dịch “ chiến thuật và  cũng là  tên lử­a cấp chiến lược của các chiến hạm nổi. Tháng 4.1980 thử­ nghiệm bay lần thứ nhất tên lử­a hà nh trình BGM-109A, tên lử­a được phóng từ tà u khu trục Mử¹ Merrill (DD-976). Tháng 6.1976 đã tiến hà nh thử­ nghiệm thà nh công phóng tên lử­a từ tà u ngầm. Sự kiện nà y đã trở thà nh quen thuộc trong lịch sử­ phát triển vũ khí tên lử­a trên biển: Tên lử­a hà nh trình cấp chiến lược được phóng từ tà u ngầm Hải quân Mử¹ Guitarro SSN-665. Trong vòng 3 năm liên tục đã tiến hà nh phóng thử­ nghiệm hơn 100 tên lử­a. Tháng 04.1983, đại diện Hải quân Mử¹ tuyên bố: "Tên lử­a đã đạt được các tiêu chuẩn khai thác sử­ dụng, sẵn sà ng được đưa và o biên chế trong lực lượng vũ trang".

Phóng tên lử­a BGM-109 trên tà u tuần dương tên lử­a Ticonderoga. 

Phóng tên lử­a BGM-109 trên tà u tuần dương tên lử­a "Ticonderoga". 

BGM-109 Тomahawk ” tên lử­a hà nh trình có cánh được phóng từ các phương tiện mang trên biển, trên không và  trên mặt đất. Tên lử­a được thiết kế theo mẫu máy bay cánh đơn “ thân tên lử­a là  ống trụ tròn, hai cánh chính có thể gấp lại và  được lắp ở trọng tâm tên lử­a và  bốn cánh ổn định đuôi hình chữ thập. Thân tên lử­a được chế tạo từ hợp kim nhôm, một số các bộ phận và  bử mặt khí động học của tên lử­a được chế tạo từ nhựa tổng hợp graphite-epoxy và  trong suốt đối với các sóng radio. Аể giảm độ phản xạ hiệu dụng, trên thân tên lử­a, cánh tên lử­a và  bộ cánh ổn định đuôi, trên thân tên lử­a được sơn phủ bằng lớp vật liệu hấp thụ sóng radar.

Tên lử­a được phân chia thà nh 6 khoang: khoang thứ nhất “ thiết bị của hệ thống điửu khiển tên lử­a và  dẫn đường mục tiêu; khoang thứ 2 “ đầu đạn với bộ phận khóa an toà n và  bộ phận kích nổ đạn, khoang thứ 3 “ thùng nhiên liệu thứ 1; khoang thứ 4- đường dẫn động bộ phân mở cánh, thùng nhiên liệu thứ 2 và  thứ 3 (thể tích toà n bộ các thùng nhiên liệu là  600 kg JP-9),khoang thứ 5: đầu hút không khí và  pin nhiệt điện, khoang thứ 6: động cơ hà nh trình và  các đường dẫn động cánh ổn định và  cánh lái đuôi tên lử­a. kết nối với khoang nà y là  động cơ tăng tốc tên lử­a nhiên liệu rắn Atlantic Research Mk 106 có lực đẩy là  26,7 kN (6000 pound) và  thời gian hoạt động là  12 s.

Trong tên lử­a được lắp đặt động cơ phản lực cánh quạt đẩy turbofan kích thước nhử có khối lượng là  58 kg, chiửu dà i 0.94 m, đường kích 0,305m DTRD Williams F107 ” WR-400 тягой 2.7 kN (272 kg). Hệ thống điửu khiển và  tự dẫn tên lử­a hà nh trình là  một tổ hợp 3 hệ thống thứ cấp xếp lần lượt, để hệ thống thứ cấp tiếp theo sử­a lỗi của hệ thống trước.

Hội tụ công nghệ đỉnh cao

Tomahawk hội tụ nhiửu công nghệ đỉnh cao của thế giới trong việc dẫn đường, chỉ thị và  tấn công mục tiêu. Hệ thống dẫn đường của Tomahawk có thể coi là  một chuẩn mực đối với tên lử­a hà nh trình hiện đại. Cơ chế dẫn đường của Tomahawk rất phức tạp và  phối hợp nhiửu công nghệ dẫn đường khác nhau, các hệ thống nà y bổ sung cho nhau nhằm tăng độ chính xác khi tác chiến.

Hệ thống thứ cấp 1 “ Hệ thống dẫn đường quán tính, hoạt động trong giai đoạn đầu và  giai đoạn giữa của quử¹ đạo đường bay tên lử­a TAINS (TERCOM Assisted Inertial Navigation System) có khối lượng 11 kg. Hệ thống bao gồm máy tính điện tử­, hệ thống hạ tầng quán tính và  thiết bị đo độ cao bằng áp suất khí quyển. Hệ thống hạ tầng quán tính dạng Strapdown INS bao gồm 3 con quay tự do đo tốc độ góc và  3 bộ gia tốc kế. Hệ thống duy trì khả năng dẫn đường với độ sai lệch không quá 1 m trên 1 km đường bay.

Hệ thống thứ 2: Hệ thống so sánh tương quan hình thể địa hình theo mặt cắt thẳng đứng của công ty McDonnell Douglas AN/DPW-23 TERCOM (Terrain Contour Matching), hệ thống hoạt động ở giai đoạn giữa và  giai đoạn cuối của quử¹ đạo bay tên lử­a. Hệ thống bao gồm máy tính điện tử­, thiết bị radar đo độ cao. Trong máy tính điện tử­ trên ổ cứng lưu trữ các mảnh bản đồ kử¹ thuật số địa bà n, nơi tên lử­a sẽ bay qua. Аộ rộng của tia radar khoảng từ 13 “ 15 độ ( tần số 4 “ 8 GHz). Nguyên tắc là m việc của hệ thống được dựa trên cơ sở so sánh địa hình của khu vực, nơi đang có mặt tên lử­a hà nh trình tham chiếu với các mảnh bản đồ mẫu mẫu tiêu chuẩn trên quử¹ đạo tên lử­a bay.

Xác định địa hình chuẩn được thực hiện bằng các thông số của chùm tia quét radio và  thiết bị đô độ cao áp suất khí quyển. Thiết bị đầu tiên đo khoảng cách từ tên lử­a đến mặt đất (độ cao thực), thiết bị thứ hai đo độ cao bay với mặt biển. Thông tin địa hình được lưu trữ trong bộ nhớ máy tính, phần mửm sẽ so sánh với những thông số thực tế thu được từ địa hình thực. Máy tính sẽ đưa ra các thông số để điửu chỉnh hệ thống dẫn đường quán tính. Toà n bộ quử¹ đạo đường bay của tên lử­a trên đất liửn được chia ra là m 64 ô điửu chỉnh với chiửu dà i đến 8 km và  chiửu rộng từ 2 đến 48 km.

Hệ thống thứ 3 ”Hệ thống so sánh điện tử­ - quang học AN/DXQ-1 DSMAC (Digital Scene Matching Area Correlation), hệ thống cho phép tên lử­a đánh trúng mục tiêu với độ sai lệch “ 10 m. Hệ thống sử­ dụng ảnh kử¹ thuật số trên nửn tảng quang ảnh và  ảnh hồng ngoại, những bức ảnh kử¹ thuật số nà y được chụp liên tiếp trên quử¹ đạo đường bay của tên lử­a. Hệ thống DSMAC bắt đầu là m việc ở giai đoạn cuối của quử¹ đạo tên lử­a, sau khi hệ thống TERCOM. Camera sẽ tiến hà nh rà  quét khu vực mục tiêu, các hình ảnh thu được được đưa và o máy tính điện tử­, phần mửm máy tính sẽ so sánh với các chuẩn khu vực mục tiêu, được lưu trữ trong ổ cứng. Các sai lệnh sẽ được chuyển thà nh lệnh sang hệ thống điửu khiển hiệu chỉnh lại quử¹ đạo bay của tên lử­a.

Hệ thống định vị vệ tinh GPS ” cung cấp thông tin chính xác vử vị trí của tên lử­a trên quử¹ đạo bay. Sự ưu việt của tên lử­a Tomahawk còn ở chỗ nó có thể cập nhật thông tin vử mục tiêu từ nhiửu phương tiện giám sát khác nhau (từ máy bay, UAV, vệ tinh, bộ binh, xe tăng, tà u chiến...). Аiửu nà y là  biểu hiện thực tế của học thuyết mạng lưới trung tâm chiến tranh, một ứng dụng công nghệ thông tin trong tác chiến được Mử¹ khởi xướng và o những năm 1990. Tomahawk có thể bay rất thấp và  linh hoạt như một máy bay, cùng với thân hình nhử gọn nên nó rất khó bị phát hiện bởi các radar mặt đất. Việc phát hiện tên lử­a bằng các biện pháp dò tìm hồng ngoại cũng rất khó khăn. Tên lử­a có tốc độ cận âm cùng với động cơ phản lực cánh quạt chạy rất êm nên độ bộc lộ bức xạ hồng ngoại không cao.

Với tất cả tiến bộ công nghệ, Tomahawk đạt độ chính xác gần như tuyệt đối. Trong chiến dịch 'Bão táp sa mạc' chống Iraq, một số khách du lịch đã vô cùng sử­ng sốt khi thấy một quả tên lử­a Tomahawk bay bám theo con đường mà  họ đang đi ở độ cao rất thấp để tránh radar phát hiện, tiếp cận mục tiêu đã được nạp lệnh trong bộ nhớ của nó.

'Chấp' mọi hệ thống phòng không

'Chấp' mọi hệ thống phòng không

Tomahawk là  tên lử­a hà nh trình tầm xa, đa nhiệm, có thể phóng từ các phương tiện mang khác nhau trên không, trên biển, trên đất liửn và  dưới đại dương. Nhà  sản xuất: Công ty Raytheon Missile Systems; Аộng lực: Sử­ dụng động cơ turbofan (động cơ phản lực cánh quạt đẩy) Williams International F107-WR-402 và  động cơ tăng tốc phản lực nhiên liệu rắn; Kích thước: dà i 18 feet 3 inches (5.56 m); với động cơ tăng tốc : 20 feet 6 inches (6.25 m). Аường kính: 20.4 inches (51.81 cm). Sải cánh: 8 feet 9 inches (2.67 m); Khối lượng: 2,650 pounds (1192.5 kg); 3,200 pounds (1440 kg) với động cơ phản lực tăng tốc;Tốc độ bay: Cận âm 880 km/h;

Tầm bắn của Tomhawk từ 1.300-2.500km tùy biến thể, có thể nhắm trúng các mục tiêu cố định hoặc bán cố định với bán kính lệch mục tiêu (CEP) chỉ 3-5m. Tên lử­a được trang bị đầu đạn thuốc nổ nặng 450kg đủ sức công phá mọi công sự phòng ngự kiên cố nhất (hoặc có thể lắp đầu đạn hạt nhân khi cần). Tomahawk có thể tấn công mục tiêu theo kiểu bổ nhà o từ trên cao xuống, tấn công từ bên hông hoặc nổ từ trên cao tạo xung lực phá hủy các mục tiêu trên mặt đất với bán kính rất lớn.

'Chấp' mọi hệ thống phòng không

Robert Aldridge - Kử¹ sư cao cấp General Dynamics - mô tả sản phẩm của mình trên tạp chí "The Nation" bà i viết "Lầu Năm Góc trên đường chiến tranh", từ ngà y 27.3.1982: Phương án chiến lược của tên lử­a được tính sao cho, với vận tốc 0,7M tên lử­a bay được một quãng đường xa nhất trên độ cao 20000 ft (6096m). Trong giai đoạn nà y tên lử­a tiết kiệm được nhiửu nhiên liệu nhất và  bay được khoảng cách xa nhất. Hệ thống dẫn đường quán tính điửu khiển tên lử­a ở chế độ bay autopilot, liên tục được điửu chỉnh bởi hệ thống TERCOM. TERCOM có thể điửu chỉnh tên lử­a bay theo quử¹ đạo đặt trước với độ chính xác rất cao, cùng với hệ thống quang điện tử­ DSMAC ở giai đoạn cuối của đường bay, cho phép tên lử­a đánh trúng mục tiêu với sai lệch rất nhử.

Khi tên lử­a tiếp cận không gian phòng ngự của đối phương, tên lử­a sẽ hạ xuống độ cao rất thấp, từ 30 m đến 130 m, với khả năng tà ng hinh (công nghệ stealth), tên lử­a có khả năng vượt qua mọi hệ thống phòng không hiện đại nhất. Khi khoảng cách đến mục tiêu còn khoảng 50 hải lý (80,5 km) tên lử­a sẽ hạ độ cao xuống còn 15 m so với địa hình và  tăng tốc độ lên đến 1,2 M để tấn công mục tiêu, các phương thức tấn công mục tiêu theo sự lựa chọn của yêu cầu nhiệm vụ, tính chất mục tiêu và  khả năng bảo vệ.

Do đặc điểm tên lử­a được chế tạo trong thời kử³ chiến tranh lạnh, đối tượng tác chiến chính là  Lực lượng quân đội Xô Viết, do đó, tên lử­a có thể mang được đầu đạn hạt nhân. Sau nà y, tên lử­a Tomahawk đã có nhiửu biến thể đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ của chiến tranh và  xung đột khu vực. Tên lử­a Tomahawk được sử­ dụng trên nhiửu phương tiện mang khác nhau, và  có thể tấn công nhiửu mục tiêu khác nhau trên biển, trên đất liửn. Chẳng hạn, tà u ngầm hạt nhân chiến lược Ohio chuyển đổi mang tới 154 quả tên lử­a Tomahawk, đủ để bất kử³ quốc gia nà o muốn thách thức Mử¹ phải rùng mình khi chiến hạm nà y lại gần.

Tiền phong