Có thể nói tác giả là một người lính yêu thơ, tham gia nhiều trận đánh, có mặt ở nhiều trọng điểm, chứng kiến và trải qua thực tế khốc liệt của nhiều mặt trận. Với sự trải nghiệm sâu sắc đó, người lính ấy đã xuất bản 4 tập thơ “Hương đất”, “Quê hương”, “Trăng treo bên cánh võng”, “Khúc tình ca người lính”, và trong năm 2022 lại công bố 3 tập thơ gồm hơn 240 bài.
Tác giả bộc bạch: “Bản thân tôi coi thơ như khoảng lặng cuộc đời, là niềm vui, là nỗi đau, là những trăn trở khi viết về đồng đội, những chị em thanh niên xung phong đã hi sinh hoặc thương tật trong chiến tranh ác liệt tại tuyến lửa Trường Sơn và thời gian chiến đấu ở Cam-pu-chia. Thơ tôi như là sự tri ân với đồng đội sau hòa bình còn gặp nhiều vất vả trong cuộc sống đời thường. Ngoài ra, đối với gia đình, cha mẹ, anh chị em, nhất là với người vợ yêu quý cùng các con của tôi”.
Bởi thế những chủ đề nổi bật nhất của các tập thơ là cuộc sống ở chiến trường, tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, đồng đội và bè bạn. Đọc thơ của Nguyễn Hồng Minh, người đọc như được thấm thía những gian khổ, khó khăn, niềm lạc quan, sự hi sinh của các chiến sĩ. Và chúng ta hiểu được vì sao mà quân đội ta đã anh dũng chiến thắng kẻ thù có vũ khí hiện đại, tối tân.
Tác giả đã miêu tả một cảnh ăn cháo của các chiến sĩ:
Xụp xoạp húp tròn quanh bát nóng
Mồ hôi chảy giọt miệng cười tươi
Cạn nồi thìa vét khua xủng xoảng
Ấm bụng cậu nào mắt cũng tươi
(Ăn cháo trên rừng Trường Sơn)
Điều đáng nói là nồi cháo đó nấu bằng “nước rỉ tanh mùi sắt váng nhơ”, và còn ít cháo nguội sót lại thì “vàng khè, thum thủm” khiến ai cũng “lè lưỡi”!
Và đây bữa cơm đầu tiên trong Dinh Độc Lập, là cơm nắm mà người lính không kịp thổi nấu:
Bữa cơm đầu tiên trong Dinh Độc Lập
Nắm cơm vắt gói lá rừng cứng ngắc
Chỗ cầm tay đã dính ướt ôi thiu
(Bữa cơm đầu tiên ở Dinh Độc Lập)
Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi tuổi trẻ, sức khỏe của bao nhiêu đồng đội, nhất là các cô thanh niên xung phong:
Con gái Trường Sơn mới vào ai cũng đẹp
Mấy tháng sau tóc rụng trơ đầu
Run cơn sốt rét vàng da tái
Thân sút gầy hai mắt quầng sâu
(Cô gái Trường Sơn)
Và câu chuyện của cô thanh niên xung phong này không chỉ là chuyện một người. Bao cô gái đã ngã xuống nơi trọng điểm khốc liệt:
Hòa bình về anh tìm em nhà cũ
Cha mẹ già tóc bạc nương nhau
Em đi xa giấy ố màu báo tử
Nghe kể chuyện em bao nỗi nhớ xót đau
(Gặp em giữa rừng Trường Sơn)
Những đồng đội của tác giả cũng đã hi sinh khi còn rất trẻ:
Đồng đội ra đi
Chưa một lần biết nụ hôn người bạn gái
Lóng ngóng run nắm tay
Không hẹn ngày trở lại
(Đồng đội tôi)
Nấm mộ của họ có chiếc điều cày, một kỉ vật chiến trường thân thiết:
Bạn tôi hi sinh nằm lại sau đồi
Chiếc điếu cày đặt trên phần mộ
Như khẩu súng người lính
Chiều hoàng hôn rực đỏ
(Hai vòng tròn trắng đen)
Họ không hề bất ngờ vì sao gian khổ khó khăn ghê gớm:
Sốt rét ở đây, có đồng đội nào không sốt
Nắng hầm như than vẫn trùm chăn đắp
Thằng chống nạng giò, vai súng nặng cùng nhau
Tóc rụng thưa dần đôi mắt trũng sâu
(Mùa khô ở Pailin)
Những tiếng hát vẫn cất cao. Tiếng hát át sự mất mát, hi sinh. Tiếng hát tăng niềm tin chiến thắng. Nhiều bài thơ của tác giả kể về tiếng hát: “Câu hát quan họ”, “Lời ví dặm”, “Tiếng hát trong hang đá”, “Anh hát em nghe giữa thành phố mang tên Bác Hồ”, “Người đàn bà hát”, “Câu hát của cha”, “Đêm Trường Sơn nghe em hát”. Tiếng hát ấy gợi nhớ miền quê quan họ:
Nghe tiếng em hát biết con gái quê mình
Chẳng lẫn vào đâu giọng Bắc Ninh
Đêm Trường Sơn ánh đèn dầu leo lét
Kinh Bắc quê mình, người đã khéo lại… xinh
(Đêm Trường Sơn nghe em hát)
Tiếng hát khỏe át cả tiếng bom:
Tiểu đội tôi
Từ đồng chí A Trưởng đến cậu lính anh nuôi
Giọng người nào cũng khỏe
Ngoài trời đạn cầu vồng chớp lóe
Át tiếng bom thù
Tiếng hát bay xa…
(Tiếng hát trong hang đá)
Thật không thể hình dung nổi tinh thần lạc quan của các chiến sĩ khi tiến về Sài Gòn:
Chưa bao giờ chúng tôi cười vui như thế
Vào cái chết mà như đi mở hội
Cả hàng quân không ai lá ngụy trang
Mặc máy bay, pháo giặc nã ùng oàng
(Thần tốc Sài Gòn)
Một điều đặc biệt là với tinh thần người lính, tác giả đã thẳng thắn, phê phán trực diện, mạnh mẽ những hiện tượng tiêu cực, những quan tham, những hình nhân vô cảm trước nỗi đau của đồng bào đồng chí. Đó là các bài thơ “Cái đinh rỉ cắm giữa lòng Thủ đô”, “Gửi ông Lý Hiển Long”, “Tiếng kêu Thủ Thiêm”, “Anh hùng ngã ngựa”, “Tổ quốc mình anh để ở đâu”, “Góc khuất lịch sử”, “Vô cảm”...
Thơ của Nguyễn Hồng Minh còn nhiều bài dành cho người mẹ, người cha cựu chiến binh, người vợ thủy chung và những người con. Đó là những người ruột thịt đem đến cho người chiến sĩ tình yêu và niềm hạnh phúc. Thật đáng tự hào khi anh viết như tâm sự, như giãi bày với người mẹ kính yêu:
Cả cuộc đời này
con không hề nuối tiếc
Bởi con đã sống làm người
biết đứng thẳng, ngẩng cao
(Con đã sống với đời không uổng phí, mẹ ơi)
Nhìn chung, thơ Nguyễn Hồng Minh phong phú về đề tài, cả trong chiến tranh và trong hòa bình, cả cuộc chiến bom rơi đạn nổ và cuộc chiến không tiếng súng chống Covid-19. Đó là thơ của một người lính yêu thơ, giàu tình cảm với đồng đội, bạn bè, quê hương, đất nước. Nhà thơ đã đi qua bom đạn chiến tranh, sống sót trở về. Việc làm thơ cũng là một hành động thiết thực để tri ân đồng đội, đồng bào, gia đình và những người thân yêu