Chí Phèo: có ba số phận
à”ng Trần Hữu Đạt, em trai nhà văn hồi tưởng vử anh trai mình một cách hóm hỉnh, ông cho hay tính cách nhà văn Nam Cao rất ít nói, nhưng khi bốc chuyện thì cũng phải biết, ông dí dửm lắm và rất ít khi uống rượu, nhưng đã uống thì phải uống thật say, say còn hơn cả Chí Phèo trong truyện, chỉ hơn anh Chí là ông không quậy, Nam Cao uống xong là ... tìm chỗ ngủ!
Là ng Đại Hoà ng không có vụ án mạng nà o như vụ anh Chí đâm Bá Kiến, đó là khẳng định không những của ông Đạt mà là rất nhiửu các cụ cao niên ở là ng Đại Hoà ng hiện đang còn sống. Theo ông Đạt, để có nhân vật Chí Phèo thì có đến... ba người hợp lại.
à”ng Đạt hồi tưởng, là ng Đại Hoà ng trước những năm 40 có một người đà n ông tên là Chí, anh ta không phải là người họ Trần mà là dân ngụ cư ở vùng khác xiêu bạt tới. Anh Chí mưu sinh bằng nghử mổ lợn thuê cho ông Trương Pháo và có nghử phụ là ... đòi nợ thuê. Như đã nói, là ng Đại Hoà ng lúc đó có năm phe phái kình địch nhau để chèn ép nông dân. Tuy là dân ngụ cư, nhưng anh Chí sống ngang tà ng, hay rượu khướt. Với nghử mổ lợn, anh có tà i bắt phèo, chế biến món ruột non của lợn rất tà i nên dân là ng gọi anh là Chí phèo. Những năm đói 1944 “ 1945, cả là ng đói, không có ai thuê mổ lợn và đòi nợ, anh Chí cũng bử là ng đi biệt tích.
Nhân vật văn học Chí Phèo, Thị Nở đã trở thà nh biểu tượng. Ngà y nay nhiửu cơ sở đã sản xuất tượng để bán trên thị trường.
Ngà y ấy, vì đói khổ là ng Đại Hoà ng không ít những nông dân khoẻ mạnh bị đẩy và o con đường lưu manh hoá. Theo ông Đạt, ngoà i anh Chí ra còn có một người đà n ông khác nữa. Một người tên là B. cũng là dân ngụ cư, anh nà y không có nhà ở, sống ở một cái lò gạch cũ mưu sinh bằng nghử thả ống lươn và ... ăn cướp. Cái lò gạch cũ, nơi anh B. trú ngụ là nơi đi qua thường xuyên của những người đà n bà đi chợ sớm buôn trầu vử sang chợ Bến và chợ khác của vùng Nam Định. Một lần, anh B. đã là m nhục một người đà n bà có chồng ở là ng Đại Hoà ng, người đà n bà nà y đã có bảy đứa con, bà nà y sau đó có sinh ra một người con. Sau vụ ấy, anh B. cũng bử là ng đi biệt tích, và người đà n bà kia vì xấu hổ cũng bử chồng con, bử là ng đi xa. Họ đi đâu không ai rõ và cũng không ai quan tâm vì năm 1945, là ng Đại Hoà ng có 857 người, gần 30 gia đình chết đói bử là ng đi biệt tích. Đau thương nà y nối tiếp đau thương kia, có nhiửu nỗi đau, nỗi nhục còn tột cùng hơn nên người là ng cũng coi chuyện đó là nhử.
à”ng Đạt cho hay, hình dáng ngang tà ng của anh Chí trong tác phẩm của nhà văn lại là một ông đi lính cho Pháp. à”ng nà y hay mặc áo tây và ng mất cúc, ngực có xăm ông tướng cầm chuử³, hay rượu khướt ở là ng và không sợ phe cánh nà o, ông nà y có vợ con đà ng hoà ng và hiện nay con cháu cũng đang sinh sống ở là ng Đại Hoà ng. Từ những nhân vật có thật ở là ng mình, Nam Cao đã hư cấu và nhà o nặn nên nhân vật Chí Phèo điển hình cho một nông dân tha hoá trong xã hội cũ.
Thị Nở... có chồng
Chẳng riêng gì bạn đọc tác phẩm của Nam Cao, ai cũng muốn biết người đà n bà xấu như ma chê quỷ hửn ấy có thực ở trong đời hay không? à”ng Trần Hữu Vịnh, người trông coi khu tưởng niệm Nam Cao kể cho tôi hay, câu chuyện giữa anh B. sống bằng nghử thả ống lươn và một người phụ nữ đi buôn trầu vử bị B. là m nhục sau có con, cũng là một hình mẫu của nhà văn Nam Cao. Người đà n bà nà y nghe nói khi còn sống khá xinh đẹp và mặn mà .
Theo nhà giáo Trần Văn Đô, 58 tuổi, giáo viên dạy văn ở trường THCS Nhân Hậu, ngụ tại là ng Đại Hoà ng cho hay thuở Nam Cao sáng tác, ở là ng có một bà tên thật là Trần Thị Thìn, con của cụ phó Thả, cụ Thả cũng được gọi là cụ đồ Thả vì biết và dạy chữ Nho. Cô Thìn không có chồng và người đà n bà nà y có tính nết hơi kử³. Thời trang của cô là tứ mùa diện váy, đầu bịt khăn vuông và gặp ai cũng cười.
Người đà n bà thứ ba mà Nam Cao lấy hình mẫu để nhà o nặn nên Thị Nở là một người đà n bà có chồng hẳn hoi và cô nà y cũng có tên đích thực là Trần Thị Nở. Cô Nở có chồng rất hiửn là nh nhưng không bao giử nấu được bữa cơm ngon cho chồng, giai thoại ở Đại Hoà ng hiện nay vẫn truyửn tụng câu chuyện cô Nở nấu cơm. Cô Nở hà ng ngà y chỉ quanh quẩn ở nhà và là m việc vặt nhưng chẳng việc gì ra việc gì. Một bữa, chồng cô đi là m cả ngà y, dặn cô ở nhà nấu cơm. Cô Nở đem gạo ra thổi và nấu cơm như hà ng ngà y chồng cô vẫn là m. Trưa vử, vợ chồng bê nồi cơm ra ăn, anh chồng nhận ra là cơm vẫn chưa chín và hửi cô rằng: Cơm sống thế nà y, là m sao ăn được. Cô Nở trả lời: Sống đâu mà sống, chỉ sường sượng thôi, ăn đi. à”ng chồng chỉ biết giơ tay kêu trời.
à”ng Trần Hữu Đạt cho hay, một chi tiết thú vị là trong tác phẩm của Nam Cao khi viết vử Chí Phèo, Thị Nở, hai con người gớm ghiếc ở là ng Vũ Đại, ông lại tả một nhân vật đà n bà khác rất hay, người nà y chỉ có và i dòng thôi nhưng cũng đủ để nói lên phẩm chất của đà n bà là ng Đại Hoà ng. Đó là vợ Đội Tảo “ tên thật là Đội Tụ, ông nà y có một người vợ rất ngoan hiửn, hát ả đà o rất hay, chính bà là người lấy tiửn giấu chồng để đưa cho Chí Phèo trả nợ cho Bá Kiến. Và Nam Cao đã viết đà n bà vốn chuộng hoà bình.
à”ng Đạt cho hay, Nam Cao rất ít khi ở là ng nhưng chuyện là ng ông rất tử vì ông có người vợ là bà Sen cả đời tần tảo, là m lụng nuôi chồng con. Mỗi bận Nam Cao vử nhà là bà Sen lại đem những chuyện ở là ng kể lại cho chồng nghe. Và với óc tưởng tượng phong phú, nhà văn đã hư cấu và nhà o nặn nên những hình tượng văn học để đời.