Khi xưa, làng Cự Đà có một bà làm vú nuôi Hoàng tử trong cung vua. Biết tin quê hương bị tàn phá, giết chóc, bà rất đau lòng, xin phép về nhà thăm quê. Thấy cảnh quê hương tan hoang, bà không vào cung vua nữa, Hoàng tử vì nớ bà nên hàng ngày quấy khóc, không chịu để ai bế ẵm. Vua đành cho gọi bà vào kinh để chăm nom Hoàng tử. Bà đã xin vua tha tội chết cho làng, cho phép người sống sót về làng để gây dựng lại. Vua ưng thuận, nhưng bắt lập Khoán ước: “Không cho phép số đinh trong làng lên quá 100 người”. Khoán ước ấy được khắc trên một viên gạch vuông, trong có viền vòng trong và vết dao cắt đôi xây ngay tại ban thờ đình làng.
Dân làng được vua tha chết đã gọi nhau về, nhưng nam giới chỉ còn một người, thế là những việc lớn trong làng như tế lễ, tang ma đều phải nhờ đến làng An Đà (thuộc xã Lê Xá) giúp đỡ… Một cụ già trong làng cho biết “Ngày xưa làng Cự Đà nghèo lắm, trong làng chỉ có 18 suất đinh, không bao giờ lên quá con số 50 người nên mọi việc lớn trong làng đều phải nhờ dân An Đà giúp. Hai làng vì tình nghĩa giúp nhau trong nguy nan mà kết chạ với nhau: Cự Đà là Chạ ngoài, An Đà là Chạ trong. Nay ngay tại đầu làng Cự Đà còn một tấm bia từ thời Lê ghi chép chuyên xưa.