Muốn tìm dấu tích Thà nh Thăng Long, ta chỉ còn có một cách duy nhất là khảo cổ học. Nhưng khảo cổ học ở một vùng đất như Thủ đô Hà Nội hiện là rất khó khi mà thà nh phố hiện đại được xây dựng từ cuối Thế kỷ XIX đã trùm lên Kinh đô cổ.Tuy nhiên, nhử sự quan tâm của Nhà nước, trong khoảng ba thập kỷ (1970“2000 “ BT), các cơ quan khảo cổ học Việt Nam (Viện Khảo cổ học, Khoa Lịch sử thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Bảo tà ng Lịch sử Việt Nam) và Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã cố gắng len lửi từng mét vuông, từng khoảng đất nhử để tiến hà nh công việc thăm dò, khảo sát, khai quật.
Đặc biệt nhân dịp kỷ niệm Thăng Long 990 tuổi, khi Nhà nước trao một phần khu Thà nh cổ cho Hà Nội, Hà Nội đã tạo điửu kiện cho Viện Khảo cổ học được khai quật bước đầu ở 3 vị trí hết sức quan trọng là Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu Lâu và một số vị trí khác. Kết quả của các cuộc khai quật là hết sức khả quan.Dưới đây xin điểm lại các thà nh tựu chính của các cuộc khai quật và suy nghĩ của chúng tôi vử Thà nh Thăng Long thời Lý - Trần - Lê được gợi lên qua các tà i liệu khai quật khảo cổ học.
1. Địa điểm Đoan Môn
Đây là một cổng chính của Thà nh Thăng Long. Nó có từ thời Lý - Trần, nhưng dấu vết hiện còn là của thời Lê (có thể là Lê sơ) và đã được thời Nguyễn và thời nay tu sửa.Tháng 10 năm 1999, Viện Khảo cổ học và Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã thám sát và khai quật ở đây 2 hố với tổng diện tích là 85,20m2...- Tại hố đà o ở phía Bắc Đoan Môn, ở độ sâu 1,20m, đã tìm thấy sân nửn được lát gạch vồ thời Lê và gồm có 9 hà ng, ôm khít chân tường Đoan Môn, trong đó hà ng ngoà i cùng lát phẳng tạo thà nh đường đi, các hà ng trong lát chéo cao dần lên tạo nửn móng vững chắc để xây tường gạch bên trên.Thăm dò các vị trí khác quanh chân tường Đoan Môn đửu thấy có đường viửn lát đá nà y.
Đường đá lát và sân gạch nà y theo chúng tôi là thuộc thời Lê (có thể được bắt đầu từ thời Lê sơ). Nó được nhà Nguyễn tiếp thu và sửa sang tu bổ. Và o thời Pháp thuộc, cuối Thế kỷ XIX, nó đã bị san lấp khoảng 1m để xây cất các công trình khác. Nếu trong tương lai, ta là m phát lộ toà n bộ ở độ sâu 1m sẽ khôi phục lại được cốt nửn của thời Lê với đường viửn lát đá còn khá nguyên vẹn và sân nửn gạch cổ lát bằng gạch vồ.
Ở độ sâu 1,90m đã gặp một đoạn đường đi được lát bằng gạch bìa nằm ở chính giữa cửa Đoan Môn và chạy dà i theo hướng Bắc - Nam dà i 15,80m.Cấu trúc của con đường gồm có 3 phần: móng đường, nửn đường và mặt đường.- Phần móng ở vị trí hố giám sát được tạo bởi 12 lớp gồm nhiửu loại vật liệu khác nhau (sửi, gạch ngói vỡ, bao nung gốm v.v...) tạo thà nh một lớp móng dà y 0,86m rất chắc chắn.- Phần nửn được tạo bởi 5-6 lớp gạch chồng lên nhau.- Phần mặt đường gồm có hai đường biên và lòng đường. Hai đường biên được tạo bởi gạch và ngói xếp thà nh các ô hình hoa chanh cách điệu. Lòng đường rộng 1,30m đã bị phá hủy hết chỉ còn sót các mảnh gạch lát hình vuông trang trí hoa cúc dây.
Căn cứ và o cấu trúc tầng văn hóa, vật liệu kử¹ thuật xây dựng và nhất là so sánh cấu trúc hình hoa chanh trong kiến trúc gạch thời Trần ở Tam Đường, Tức Mặc, chúng tôi cho rằng đây là con đường đi có từ thời Trần, có sử dụng lại gạch thời Lý và gạch thời Bắc thuộc. Do có ngói Lý, ngói Trần phủ lên trên chúng tôi cũng dự đoán rằng có thể con đường nà y có mái che.Dự đoán rằng có thể con đường đang phát triển vử hướng Điện Kính Thiên.
Vết tích con đường có còn hay không thì chỉ có các cuộc khai quật sắp tới mới có thể trả lời được. Và nếu đúng là một con đường đi từ Đoan Môn đến Điện Thiên An thời Trần thì sẽ trả lời và minh chứng cho một vấn đử khoa học khác rằng Điện Kính Thiên thời Lê đã dựa trên nửn cũ của Điện Thiên An (hay Điện Cà n Nguyên) của thời Lý và thời Trần.
2. Địa điểm Bắc Môn
Bắc Môn là cổng thà nh phía Bắc của Thà nh Hà Nội thời Nguyễn. Tại đây, Viện khảo cổ học và Sở Văn hóa thông tin Hà Nội đã khai quật hai hố với tổngdiện tích là 60,40m2. Tại phía Tây của Bắc Môn đã tìm thấy một phần móng nửn của một kiến trúc thời Lê. Do hố đà o nhử cho nên chưa thể biết kích thước của kiến trúc, chỉ biết rằng kiến trúc nà y có một phần móng được lót đá và gạch vồ, phần trên được xây dựng hoà n toà n bằng gạch vồ và có giật cấp thu dần và o.
Ở hố phía Nam Bắc Môn đã tìm thấy một nửn móng hay tường kiến trúc khác cũng được lót móng bằng đá xanh trên xây gạch vồ, phía ngoà i, phía trong được nhồi chặt bằng gạch vụn. Vết tích kiến trúc nà y nằm hẳn dưới kiến trúc Bắc Môn.Dưới các viên đá xanh lót mửng, còn có một lớp móng khác dà y 1,15m được xây bằng gạch vồ và gạch vụn nện chặt không thấm nước.
Hai kiến trúc nà y đửu có niên đại Lê. Mặc dù diện đà o nhử, không rõ tính chất và quy mô của các kiến trúc, nhưng các vết tích nà y đem lại các nhận thức khác vử Thăng Long ở khu vực nà y. Vị trí nà y chưa thấy xuất hiện vết tích kiến trúc Lý và Trần. Trái lại, thời Lê lại xây dựng khá nhiửu và hết sức kiên cố. Sự kiên cố đó một mặt phản ánh một đặc trưng của kiến trúc Lê, một mặt có thể đoán là vị trí nà y khá gần sông Tô Lịch cho nên phần móng phải được gia cố chắc chắn hơn.
Nếu so sánh với bản đồ Thăng Long thời Lê - Hồng Đức, ta sẽ thấy khu vực nà y trên bản đồ không vẽ kiến trúc gì cả. Điửu đó có nghĩa là bản đồ nà y tính ước lệ rất lớn và khi khai quật khảo cổ theo diện rộng chắc chắn sẽ điửn thêm được nhiửu điểm mới lên bản đồ Hồng Đức.
3. Địa điểm Hậu Lâu
Hậu Lâu (7 Hoà ng Diệu) là tên một kiến trúc thuộc thà nh cổ thời Nguyễn đã được xây sửa thời Pháp thuộc. Vị trí nà y ở phía sau Điện Kính Thiên.Năm 1998, Viện Khảo cổ học và Ban quản lý Di tích Danh Thắng Hà Nội đã khai quật 206m2, kết quả như sau:Ở độ sâu 3,20m đã tìm thấy một móng nửn của một cầu bến ven sông hoặc ven hồ. Móng nửn nà y được cất bằng vật liệu đá thời Lý, gạch thời Lê và có niên đại khoảng thời Lê sơ (Thế kỷ XV).Ở độ sâu 1,15m -1,35m đã tìm thấy vết tích của 3 mảng nửn kiến trúc đửu được xây cất bằng gạch vồ và đá có niên đại Lê Trung Hưng.
Toà n bộ vết tích các di tích kiến trúc và di vật ở đây cho phép hình dung cảnh quan và sự thay đổi của kiến trúc thời Lê ở đây như sau:Theo sử cũ phía sau Điện Kính Thiên là nơi nghỉ ngơi của Vua và Hoà ng tộc. Và o thời Lê sơ, ở vị trí hố đà o là sông (hay hồ ao) và đã xây một cầu bến lớn. Bên cạnh cầu bến lớn, đã tìm thấy một bộ sưu tập bát đĩa men trắng cao cấp có trang trí rồng rất đẹp được Việt Nam sản xuất chỉ dà nh riêng cho Hoà ng cung với nhiửu xương thú, xương cá. Đó chính là đồ dùng của Hoà ng cung.Và o thời Lê Trung Hưng toà n bộ khu vực nà y sau bị lấp bằng gạch ngói thời Lê sơ có trang trí rồng và hoa lá. Sau khi lấy lấp đoạn sông (hay hồ) nà y, thời Lê Trung Hưng đã xây nhiửu kiến trúc khác lên trên.
4. Địa điểm Văn Miếu
Địa điểm Văn Miếu được Viện Khảo cổ học và Trung tâm văn hóa Văn Miếu - Quốc Tử Giám thám sát 50m2.Kết quả đã tìm thấy 22.583 di vật gồm vật liệu kiến trúc, đồ gốm, tiửn đồng, các mảnh sắt, gỗ, vử ốc, đá, v.v... có niên đại từ thời Bắc thuộc, thời Lý đến thời Nguyễn. Sử ghi chép rằng Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070. Nhưng trên mặt đất hiện nay chỉ có vết tích của Văn Miếu Lê và Nguyễn. Việc tìm thấy các vật liệu xây dựng như gạch ngói có trang trí rồng, phượng thời Lý đã chứng minh sự ghi chép của sử cũ rằng Văn Miếu đã được xây dựng dưới thời Lý.
5. Khu vực Lăng Bác
Trong quá trình thi công xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1975, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy vết tích thà nh cổ thời Bắc thuộc, vết tích phía Tây của tòa Thà nh Hà Nội đầu thời Nguyễn.Ngoà i ra, còn rất nhiửu gạch gốm đửu có từ thời Bắc thuộc, gạch Long Thụy Thái Bình thời Lý.Vị trí nà y cho phép suy nghĩ vử ranh giới phía Tây của Thà nh Thăng Long.
6. Địa điểm số 5 Hoà ng Diệu
Đã được Viện Khảo cổ học, Bảo tà ng Lịch sử Việt Nam và Ban quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội thăm dò năm 1988.Vị trí nà y chưa tìm thấy vết tích kiến trúc nhưng đã tìm thấy nhiửu vật liệu xây dựng và gốm sứ từ thời Bắc thuộc đến thời Nguyễn. Đáng chú ý ở đây đã tìm thấy một mảnh đầu của con Sấu thần thời Lý gần tương tự như con Sấu Lý trên thà nh bậc kiến trúc tìm thấy ở Bách Thảo thời Pháp.Rồng đá trên thửm điện Kính Thiên - trung tâm của Hoà ng thà nh Thăng Long qua các thời kử³.
7. Khu vực Quần Ngựa
Khu vực nà y vốn đã được nghiên cứu từ thời Pháp thuộc và có tới hà ng nghìn di vật từ thời Bắc thuộc đến thời Nguyễn được tìm thấy ở đây. Nơi đây đã được nhiửu cơ quan như Bảo tà ng Lịch sử Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Khoa Lịch sử (Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với Sở văn hóa Thông tin Hà Nội nghiên cứu. Các địa điểm được thăm dò gồm có khu vực Núi Cung, Đồng Gạch, Đồng Giếng, Quần Ngựa, Chùa Chân Giáo, v.v...Các di vật tìm thấy cũng như vết tích kiến trúc cho phép nghĩ rằng khu vực nà y không có kiến trúc lớn và nằm ở phía ngoà i của Thà nh Thăng Long và đây là khu sống và lao động của các tầng lớp bình dân có xen lẫn một số kiến trúc.
8. Địa điểm Giảng Võ
Địa điểm nà y được phát hiện năm 1983 trong quá trình xây dựng Hồ Ngọc Khánh. Viện Khảo cổ học, Sở Văn hóa Thông tin và Phòng Văn hóa Thông tin Quận Ba Đình tiến hà nh nghiên cứu thu hồi di vật và đo vẽ vết tích kiến trúc.Kết quả đã thấy vết tích của một nửn kiến trúc dà i 30m, rộng 8m.Đặc biệt đã thấy một sưu tập hiện vật lớn gồm 507 di vật trong đó có 433 di vật là vũ khí gồm: giáo, câu liêm, đinh ba, qua, kiếm, lao, mũi tên, móc câu, chông, súng lệnh, đạn đá, v.v...Ví trí nà y góp phần nghiên cứu Điện Giảng Võ thời Lê và cung cấp một bộ sưu tập vũ khí lớn, phong phú nhất thời Lê.
9. Địa điểm 11 Lê Hồng Phong
Năm 1996, trong quá trình thi công xây dựng Trung tâm Hội nghị Quốc tế, đã phát hiện nhiửu di vật.Viện Khảo cổ học, Bảo tà ng Lịch sử Việt Nam và Bảo tà ng Hà Nội đã tiến hà nh khai quật ngay.Tuy diện tích khai quật còn sót lại rất nhử hẹp nhưng đã tìm thấy được một sưu tập lớn các di vật kiến trúc thời Lý chứng tử nơi đây có một kiến trúc lớn thời Lý.
10. Địa điểm ngã tư Hà ng Đường - Hà ng Cá và Ngõ Gạch
Năm 1980, khi thi công xây dựng đường nước tại vị trí nà y đã chạm và o một kiến trúc đá ở độ sâu 1m. Dưới các tấm đá lát là các hà ng gạch vồ xây xếp rất đẹp. ửng dẫn nước đã nằm lên trên kiến trúc nà y. Vị trí nà y được đoán có thể là vết tích Cầu Đông nổi tiếng ở phía Đông Thà nh Thăng Long.
11. Địa điểm Trung tâm Thương mại Trà ng Tiửn
Năm 2000, khi thi công xây dựng Trung tâm Thương mại Trà ng Tiửn, Viện Khảo cổ học và Ban quản lý Di tích và Danh Thắng đã được phép thăm dò ở đây 115m2.Kết quả đã tìm được một khối lượng lớn di vật, trong đó chủ yếu là gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản từ Thế kỷ XVII - XVIII. Điửu đó cho thấy, và o thời gian nà y từ Thế kỷ XVII - XVIII, đây là nơi tụ cư đông và buôn bán khá sầm uất.
12. Địa điểm 47 Hà ng Dầu
Địa điểm 47 Hà ng Dầu, trước khi thi công xây nhà , Viện Khảo cổ học và Sở Văn hóa Thông tin đã thăm dò trước.Địa điểm Chợ Hôm, khi đà o móng xây dựng, công nhân đã thu gom đồ gốm sứ lại và báo cho Viện Khảo cổ học đến nghiên cứu.Tính chất khảo cổ học nơi đây đửu tương tự như địa điểm Trà ng Tiửn. Điửu đó chứng tử từ Hồ Hoà n Kiếm xuống Chợ Hôm đửu là khu dân cư và các điểm trao đổi buôn bán của Thăng Long Thế kỷ XVII - XVIII.
Các nghiên cứu đó rải rác ở nhiửu địa điểm, nhiửu thời gian khác nhau, mỗi địa điểm có một đóng góp riêng mà tóm lại bước đầu đã đạt được kết quả đáng khích lệ như sau:
1. Đã góp phần chứng minh được rằng trung tâm của Hoà ng Thà nh - Thăng Long thời Lý - Trần - Lê ở là khu vực Thà nh cổ Hà Nội mà tâm điểm là Điện Kính Thiên.Kết hợp với tư liệu các di tích và văn bia trên mặt đất có thể xác định được tương đối chính xác quy mô của ba vòng Thà nh Thăng Long bao bọc lẫn nhau gồm Cấm Thà nh, Hoà ng Thà nh và La Thà nh.
2. Đã hiểu được sơ bộ các đặc điểm của nghệ thuật Thăng Long qua các thời: Thời Lý cầu kử³ và tinh xảo; thời Trần khửe mạnh, phóng khoáng; thời Lê sơ khửe khoắn nhưng hơi đơn điệu; thời Lê Trung Hưng nhử nhẹ nhưng khá đa dạng.
3. Đã hiểu được phần nà o sinh hoạt ở Thăng Long qua các thời. Ví dụ qua đồ gốm sứ thì trong thời Lý, Trần luôn luôn tồn tại đồ cao cấp bên cạnh các đồ bình dân; thời Lê sơ thì có hẳn một lò quan chuyên sản xuất các đồ cao cấp cho Hoà ng cung. Nhưng đến thời Lê Trung Hưng thì đồ dùng cao cấp và bình dân dường như không phân biệt. Lại nữa, khi là m thống kê các mảnh đồ gốm, ta thấy rằng đồ gốm nước ngoà i luôn luôn được trao đổi và buôn bán để sử dụng. Nhưng trong khu vực Hoà ng Cung, đồ gốm Việt Nam luôn luôn được sử dụng với tỷ lệ rất cao so với gốm Trung Quốc và gốm Nhật Bản.
4. Các cuộc khai quật đã bước đầu góp phần bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa của Kinh đô Thăng Long. Các vết tích kiến trúc được đo vẽ, miêu tả, chụp ảnh. Nhiửu di vật đã được thu hồi. Vết tích kiến trúc ở Đoan Môn đã bắt đầu được bảo vệ một phần là m bảo tà ng ngoà i trời. Các di vật ở Hậu Lâu đã được trưng bà y lại di tích. Điửu đó báo hiệu chúng ta sẽ có bảo tà ng khảo cổ học trong tương lai vử Kinh đô Thăng Long.
Trong 3 thập kỷ các phát hiện khảo cổ học đửu là do xây dựng các công trình là m phát lộ. Trong thời gian đầu, chỗ nà o có ý thức báo lại thì cứu vớt được chút ít di vật. Chỗ nà o không báo thì di sản bị mất vĩnh viễn. Chỉ từ năm 1998 trở lại đây được sự quan tâm của Thà nh phố Hà Nội và Bộ Văn hóa Thông tin, các cuộc khai quật mới được Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội và Viện Khảo cổ học tiến hà nh có kế hoạch và theo đúng trình tự khoa học.
Do vậy, trong tương lai để bảo vệ di sản văn hóa Thăng Long 1000 tuổi dưới lòng đất, cần có quy chế khảo cổ học đô thị trước hết cho Hà Nội.