Tuy nhiên, điửu là m cho không ít người băn khoăn, thắc mắc ở đây không phải là các phẩm chất, đức tính hay hương vị của người Trà ng An và hoa nhà i. Cái chính là người Trà ng An ở đâu mà gắn bó mật thiết với đức tính thanh lịch, như một sự tất yếu không thể phủ nhận được, giống như mùi thơm của hương hoa nhà i vậy.
Lần tìm, truy nguyên nghĩa của từ Trà ng An, có nhiửu cách giải thích khác nhau. Trà ng An hay Trường An vốn là tên kinh đô của hai triửu đại phong kiến thịnh trị và o bậc nhất Trung Quốc: Tiửn hán từ năm 206 trước Công nguyên đến năm thứ 8 sau Công nguyên và triửu đại nhà Đường từ năm 618 đến năm 907 đửu thuộc vùng Tây An. Cụm từ trên vừa có nghĩa chỉ một vùng đất cố đô xưa của Trung Quốc, vừa có ý nghĩa chỉ tính chất muôn đời bình yên của các triửu đại ấy. Từ Trà ng ở đây chỉ là cách nói chệch và viết chệch của từ yên mà thôi. Trong trường hợp nà y, sự nói chệch và viết chệch của hai từ trên đửu vẫn giữ nguyên ý nghĩa. Với nghĩa danh từ, thì Trà ng An là một từ ghép cố định, chỉ là một danh. Còn với nghĩa tính từ thì Trà ng An là cụm từ ghép không cố định, gồm hai tính từ độc lập: trà ng có nghĩa là dà i, lâu bửn, còn an có nghĩa là bình yên, an là nh. Ghép hai tính từ ấy lại cho ta một cụm từ co nghĩa kép là sự bình yên, lâu dà i.
Tuy nhiên, cho đến nay, phần lớn người dân Việt
Thế nhưng, người Trà ng An xịn lại không phải người Việt
Ngà y nay, khi đến thăm đửn Vua Đinh ở cố đô Hoa Lư, ai cũng có thể thấy trên bức đại tự có ghi hà ng chữ: Chính thống thủy với nghĩa là Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên mở ra nửn chính thống cho nước Đại Cồ Việt. Hai bên cột giữa có treo câu đối: Cồ việt đương Tống Khai Bảo/ Hoa Lư đô thị Hán Trà ng An, tạm dịch nghĩa là : Nước Đại Cồ Việt ngang hà ng với nhà Tống đời Khai Bảo; Hoa Lư là kinh đô Đại Cồ Việt cũng như Trà ng An là kinh đô nhà Hán vậy. Ngay sau khi lên ngôi Hoà ng đế, Đinh Tiên Hoà ng chọn Hoa Lư là m kinh đô. Kinh đô hoa lư xưa rộng khoảng 300ha, gồm thà nh Ngoại, thà nh Nội, và thà nh Nam, được bao quanh bởi núi đá vôi vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thà nh có gạch bó, đắp cao từ 8 “ 10m. Khu kinh thà nh nà y nằm trọn ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngà y nay.
Khi đất nước bình yên và phát triển trên vị thế mới, Lý Thái Tổ đã đặt tên cố đô Hoa Lư là Trà ng An và đổi kinh đô Đại la thà nh Thăng Long. Như vậy, địa danh Trà ng An thứ 2 trên thế giới chính là Hoa Lư. Sau nà y, có người cho rằng việc vua Lý Thái Tổ đổi Hoa Lư thà nh Trà ng An là có ý ca ngợi tiửn nhân Đinh Tiên Hoà ng, vị hoà ng đế đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Trong suốt thời gian trị vì, nơi đây dưới 2 triửu đại Đinh và Tiửn Lê, kinh đô Hoa Lư đương nhiên trở thà nh trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của đất nước. Thời đó, luật pháp chưa phát triển, kẻ nà o ăn cắp thì bị chặt tay, tên nà o giết người thì ném cho hổ báo xơi. Suốt nửa thế kỷ phồn hoa đô thị, muôn dân trăm họ đã không còn nạn 12 sứ quân hoà nh hà nh, không còn nạn ngoại bang phương Bắc xâm lược, mọi người đửu được sống trong yên bình, no đủ. Thời ấy, kinh đô Hoa Lư thật đẹp, người ta yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, cư xử lễ nghĩa, không có trộm cắp, cướp bóc, đến mức không nhà nà o cần phải khóa cửa ban ngà y lẫn ban đêm. Cuộc sống diễn ra trong cảnh thanh bình, nên người ta thường ví kinh đô Hoa Lư như kinh thà nh Trường An hay Trà ng An ở phương bắc. Từ thời ấy, người dân Hoa Lư đã thuộc lòng câu ca: Chẳng thơm cũng thể hoa nhà i/ Dẫu không thanh lịch cũng người Trà ng An.
Ở thủ đô Hà Nội, sau thời kử³ 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta đã chung tay xây dựng lại đất nước trong hòa bình. Hà Nội ngà y nay và kinh thà nh Thăng Long xưa mãi vẫn là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của cả nước. Người dân thủ đô luôn ý thức rất rõ điửu đó và đã tìm cho mình một cách ứng xử văn hóa rất đặc trưng, xứng đáng với truyửn thống của người Trà ng An xưa. Đây cũng là thời kử³, người dân Hà Nội thi nhau truyửn tụng câu ca: Chẳng thơm cũng thể hoa nhà i/ Dẫu không thanh lịch cũng người Trà ng An.
Câu ca trên chỉ nói lên một phẩm chất thanh lịch trong toà n bộ cách ứng xử của người dân kinh đô Hoa Lư xưa và thủ đô Hà Nội ngà y nay. Nhưng đấy lại là một phẩm chất tối quan trọng, tạo nên nét đặc trưng, khu biệt đời sống văn hóa của người dân kinh đô - thủ đô với các vùng miửn khác trong cả nước.
Tuy nhiên, trong và i thập kỷ nay, nhất là từ khi nước ta mở cửa nửn kinh tế, hội nhập với khu vực quốc tế, sự giao thương buôn bán, là m ăn với nhiửu quốc gia và tổ chức quốc tế khác nhau, cũng như sự giao lưu văn hóa giữa các vùng miửn diễn ra mau lẹ hơn. Ngoà i những yếu tố tích cực do sự giao lưu kinh tế và văn hóa mang lại, nhiửu cách ứng xử đã dần là m phôi pha đi những nét đẹp thanh lịch vốn có của người dân Thủ đô.
Thiết nghĩ, chúng ta đang tiến gần đến đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long “ Đông Đô “ Hà Nội, mỗi người, dù là sinh ra và lớn lên ở đâu, nếu là người Việt Nam cũng cần biết trân trọng và có trách nhiệm hơn trong việc giữ gìn truyửn thống thanh lịch của người dân thủ đô có nghìn năm văn hiến, trong văn hóa ứng xử.