Tìm rắn trong đêm
Sau bữa cơm chiửu vội vã, Sáu Tùng tạm biệt vợ con và bước sang chiếc xuồng nhử cạnh bên để thực hiện chuyến săn đêm như mọi ngà y. Xuồng rời bến, băng đồng thẳng hướng huyện Hòn Đất (Kiên Giang). Dãy Thất Sơn hùng vĩ lùi dần sau cánh đồng ngập nước lũ, mặt nước phẳng lặng như hồ thu, chỉ có hai chiếc xuồng của Sáu Tùng và Tư Thương là m xao động đồng lũ cô quạnh. Xuồng vừa rẽ nước phăng phăng, Sáu Tùng nói: Ở đây kênh nhiửu nên chỉ nhắm hướng mà đi. Sau hơn hai giử chạy hết tốc lực, trời vừa sẫm tối, Sáu Tùng cho xuồng dừng tại một bìa trà m. Bất chợt có xuồng bơi ngang, hửi ra mới biết đây là địa bà n thuộc ấp Thuận Tiến, xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất. Vừa rít hơi thuốc, Sáu Tùng nói: Ở đây, đồng hoang vu và thưa người, nên rắn còn nhiửu. Hơn nữa, đồng ruộng bị ngập, rắn rút và o những chòm cây tránh lũ, vì vậy, dân đi săn các nơi thường đổ vử đây.
SaÌu TuÌ€ng vưÌ€a băÌt đươÌ£c con răÌn raÌo trong chuyêÌn săn đêm.
Bóng tối trà n ngập cánh đồng nước lũ, Sáu Tùng và Tư Thương chia nhau mỗi người một hướng tiến sâu và o rừng trà m. Bên trong, rừng thâm u và mà n đêm dà y đặc, chỉ thấy choá đèn treo trước trán và ánh mắt thâm quầng của Sáu Tùng dõi theo từng cử động trên thân trà m. Bất chợt một con rắn hổ hà nh từ dưới nước bơi vội và o hang, nhanh như cắt, Sáu Tùng phóng lên liếp trà m tóm lấy con rắn hổ hà nh, cuộc giằng co quyết liệt, cuối cùng thì con rắn dà i hơn một mét, nặng hơn nửa ký được Sáu Tùng lôi ra từ trong hang, Sáu Tùng nói: Ban đêm, rắn thường ra ngoà i kiếm ăn, hoặc leo lên ngọn cây tìm nơi trú ẩn, nên chỉ dễ săn bắt và o lúc nà y.
Trà m dà y đặc, những con rắn nằm co ro hay vắt võng trên thân cây đửu không thoát khửi ánh mắt nhà nghử của Sáu Tùng, anh phân trần: Vùng nà y còn hoang vu rắn độc nhiửu, nên phải quan sát kử¹. Nếu là rắn thường, vừa tầm thì bắt bằng tay, còn rắn độc hoặc nằm xa tầm tay thì phải dùng kẹp sắt. Kẹp sắt gồm hai mấu sắt hình chữ V gắn ở đầu một cây sà o dà i, khi phát hiện, Sáu Tùng nhẹ nhà ng đưa kẹp sắt và o giữa mình rắn và giật mạnh sợi dây thòng lọng phía dưới, con rắn bị kẹp chặt chỉ còn giãy giụa. Với cách bắt thiện nghệ, Sáu Tùng cam chắc: 95% rắn không thể thoát thân. Hầu như vừa có dấu vết người đi săn lướt qua nên tìm mãi không còn thấy rắn, Sáu Tùng liửn điện thoại cho Tư Thương bọc ra kênh thẳng hướng Kiên Lương (Kiên Giang). Có thêm một thà nh viên bất đắc dĩ lại vụng vử với sông nước, nên chiếc xuồng cứ tròng trà nh, Sáu Tùng khuyên tôi nằm với tư thế ngã ngửa và lấy tấm nilông trùm kín từ đầu đến chân để tránh nước tạt, vừa để xuồng chạy nhanh và an toà n. Chạy được hơn chục cây số thì trời đổ mưa xối xả, Sáu Tùng và Tư Thương cho xuồng nấp và o một chòm cây để chử mưa tạnh.
Câu chuyện giữa đồng
Sáu Tùng năm nay 39 tuổi nhưng trông anh già trước tuổi rất nhiửu bởi cái nghử luôn phải thức thâu đêm, trùm kín trong tấm nilông, anh nói: Săn rắn quanh năm, nhưng nhiửu nhất là và o mùa lũ, lũ cà ng lớn, rắn tạt lên cây cà ng nhiửu, người săn dễ tìm nhưng vất vả lắm, phải thức suốt đêm, nên nhiửu khi buồn ngủ đến nỗi giơ kẹp sắt lên mà mắt mở không ra. Tư Thương ngồi cạnh bên phụ hoạ: Bắt được con rắn, rồi gặp mưa đêm kéo dà i, phải nằm chịu trận giữa đồng chử sáng mới vử. Tuy cực nhưng vui, vì giữa đồng không mông quạnh hễ cứ khuya đến là anh em đậu xuồng chụm lại chuyện trò cho đỡ buồn ngủ, bất kể là lạ hay quen.
Câu chuyện đang rôm rả thì giọng Sáu Tùng bỗng chùng xuống: Hà nh nghử săn rắn, nhưng không sợ rắn độc, mà sợ nhất là nỗi xa nhà , xa cha mẹ. Sáu Tùng cho biết tên anh là Phùng Văn Tùng, quê ở xã à” Long Vĩ, huyện Châu Phú (An Giang), 15 tuổi, anh theo cha rong ruổi khắp vùng Tứ giác Long Xuyên để hà nh nghử săn rắn đầy cực khổ và hiểm nguy. Bấm đốt tay, Sáu Tùng tính: Đến nay, được 24 năm trong nghử, nhưng mà không khá nổi! Phải chi mình có ruộng nương là m phụ thêm, chứ nghử nà y khô dầm là khô tiửn. Rồi Sáu Tùng tự hửi: Cùng trang lứa như tôi sao nhiửu người sung sướng, còn mình lại lang bạt, bấp bênh trên sóng nước như vầy. ành sáng từ choá đèn và ng vọt, héo hắt trước trán cà ng là m lộ rõ ánh mắt quầng thâm và khuôn mặt đen đúa, khắc khổ của Sáu Tùng. Tư Thương còn trẻ, anh ít kể vử mình mà chỉ buông câu: Nghèo quá, ráng là m chứ biết sao. Không chỉ cái nghèo đeo bám, Sáu Tùng còn mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo mà lâu nay chưa qua khửi, anh mơ ước: Tui ráng là m dà nh dụm trị hết bệnh và mua và i công đất để sống gần nhà , chứ mỗi năm chỉ vử thăm quê được ba ngà y tết, mà cha mẹ lại già rồi.
Xóm phiêu bạt
Khoảng 6 giử sáng, xuồng đi săn lần lượt cập bến. Niửm vui của mấy đứa con nít có cha vử và nỗi hồi hộp, đợi chử của các bà vợ có chồng đi săn đêm là m chộn rộn cả đầu kênh Lò Gạch. Bước thấp bước cao vì tối qua Tư Thương mất ngủ và ngồi suốt trên xuồng, anh xách giỏ rắn độ chừng ba ký qua bên kia chợ Lương An Trà , bà chủ vựa thu mua rắn thấy có người lạ giơ máy ảnh lên chụp, bà liệng ngay giỏ rắn xuống đất và mắng Tư Thương té tát: Tao muốn yên ổn là m ăn nên tao không cần mà y dẫn quay phim chụp hình. Mà y muốn tao mua rắn của mà y nữa không. Tư Thương tiu nghĩu và như thấy mình có lỗi vì không giúp tôi chụp được cảnh nà y.
Trở lại cầu kênh Lò Gạch, lúc nà y, có khoảng 30 chiếc ghe của nhóm thợ săn neo đậu san sát tạo thà nh một xóm nhử mùa nước. Mỗi ghe là một gia đình từ các nơi đổ vử, anh Nguyễn Thanh Tâm, 37 tuổi, quê xã Thạnh Mử¹ Tây, huyện Châu Phú, cùng vợ và ba đứa con vử sống ven kênh đã bốn mùa nước để hà nh nghử săn bắt rắn. Anh Tâm cho biết mỗi đêm anh săn được từ hai đến ba ký rắn, chủ yếu là rắn ráo, hổ hà nh, hổ ngựa, rắn nước... sau khi trừ chi phí, mỗi đêm anh kiếm được hơn 200.000 đồng. Anh Tâm nói giọng buồn: Cực khổ tui hổng sợ, chỉ tội nghiệp hai đứa con lớn phải bử học nửa chừng vì tui phải rà y đây mai đó. Chị Vẹn, vợ anh cạnh bên nghẹn ngà o: Mình dốt đã đà nh, nhìn con dốt lại cà ng đau lòng, chứ nó ham học lắm!
Còn anh Võ Văn Sà o, ở xã à” Long Vĩ ví von: Tụi tui như lục bình vậy, chỗ nà o săn bắt được thì neo đậu lại, khi nà o không còn săn bắt được nữa thì dời đi nơi khác. Sống rà y đây mai đó, nên con nít ở xóm nà y hầu hết đửu bử học nửa chừng. Vợ chồng anh Nguyễn Văn Hùng ở ấp Thạnh Phú, xã Thạnh Phú, huyện Châu Phú cùng hai đứa con sống trên chiếc xuồng nhử ở ven kênh, tuy có khá hơn là vợ anh Hùng đưa con đến trường mỗi sáng, nhưng học được bao lâu thì anh không dám chắc. Sau nà y, chắc nó cũng theo nghiệp của cha mẹ nó mà thôi, anh Hùng nói và nhìn ra dòng kênh nước chảy vùn vụt như không thể đoán định được tương lai của mình sẽ dừng lại ở nơi nà o.
15 giử, xóm nhử ven cầu kênh Lò Gạch bắt đầu nổi lửa cho bữa cơm chiửu, vợ chồng Sáu Tùng và hai đứa con quây quần bên mâm cơm trên chiếc xuồng chật hẹp, trong bữa cơm chiửu hôm đó, chỉ thấy có mấy con cá kho quẹt và tô canh chua điên điển, tuyệt nhiên không thấy món nà o gọi là đặc sản mà anh đã vật vã săn bắt suốt đêm qua, những thứ đó vợ anh đã bán hết cho chủ vựa.
Trên tuyến đường Tri Tôn “ Và m Rầy rẽ và o xóm nghèo du cư ven cầu kênh Lò Gạch, ban ngà y, hầu như cánh đà n ông, trai tráng ai cũng ngủ vùi trong những chiếc lửu che tạm, hay trong những mui ghe neo đậu san sát ven kênh, ai cũng bảo sao cuộc sống lặng lẽ, êm đửm đến như vậy, nhưng nà o có biết rằng, mới tối hôm qua họ phải thức trắng đêm vật vã trên đồng nước lũ để tìm kế sinh nhai. Và cho dù cuộc sống có thế nà o đi chăng nữa, họ vẫn không chịu bó gối khoanh tay, mà vẫn can đảm bước tới dù cuộc sống có đầy những bất trắc, lo toan.