Yên Duyên, Yên Sở nổi tiếng với nghử cá, còn Mơ, Mai Động có đậu phụ, rồi Mơ Táo có rượu, là ng Quử³nh Lôi (ngà y xưa gọi là Quử³nh Lôi Trại) thì có mướp bảy lá.
Cả một khu vực già u có, trù phú êm ả dưới lũy tre là ng, phía dưới gần Đuôi Cá là Đầm Sét nổi tiếng với đặc sản cá rô. Đoạn giữa từ Mơ đến Đầm Sét là là ng cổ Tương Mai, nay đang ngà y cà ng hối hả đô thị hóa. Tuy vậy vẫn còn cái cổng là ng xây kiểu chùa, nhìn ra đường Trương Định, có tường bao quanh rồi rẽ ra đường Nguyễn Đức Cảnh gần Nhà máy Điện cơ Thống Nhất. Tương Mai sở hữu một món khoái khẩu.
Người Hà Nội xưa đã khó tính vử ăn uống, với những đặc sản được chế biến từ lá rau, hạt thóc, hạt ngô, rồi từ chăn nuôi như con cá, con lợn, gà , ngan, ngỗng... Từ gạo nếp Tương Mai cho xôi xéo và xôi vò, nói đến Tương Mai là dân Hà Nội nghĩ đến món đặc sản nà y ngay.
Là ng Tương Mai sạch và đẹp, nét hiện đại tồn tại bên cổ kính. Cạnh những nhà mái bằng, bê tông, người ta vẫn nhận ra mái ngói vảy cá, ngói Hưng Ký từ thế kỷ trước. Bất ngử là đang đi trên đường phẳng và nh vạnh gặp một quãng tường tụt và o, vẫn có cây cối, thậm chí cả những lũy tre. Những tảng bê tông lớn nối đuôi nhau ở trên để cống thoát ngầm phía dưới. Trong là ng lô nhô quán nước, quán bia, hà ng chữa xe máy, karaoke san sát phục vụ người bản địa, người nhập cư và khách vãng lai. Đường rộng, xe máy chạy suốt ngà y, còn điện và nước sạch đã vử từ lâu.
Đi quanh là ng, nhanh trí, bạn sẽ nhận ra những gia đình nà o còn bán xôi. Thúng, mủng, dần, sà ng, treo la liệt ở trên bếp hay hiên nhà sau khi đã xong công việc. Thể nà o cũng đập và o mắt là cái chõ sà nh rất to, cho được và o hà ng yến gạo. Tôi lân la và o nhà bà Ninh. Mới sáu mươi, bà đã ngồi bán xôi ở phố Minh Khai bốn chục năm nay. Bà bảo:
- Mai em nghỉ ông ạ.
- Chắc gia đình có giỗ chạp à ?
Vừa hửi xong tôi lại nhìn thấy mấy thúng gạo nếp đang ngâm. Bà bảo:
- Không, mai em có hà ng đặt, họ đặt đám cưới 50 mâm, phải có 50 đĩa xôi vò, bảy giử sáng đã đưa lên một khách sạn trên Giảng Võ. Khách quen ngoà i Minh Khai lại ngóng, lại trách cho mà xem. Nhưng thôi, ăn được đằng nọ thì thôi đằng kia ông ạ.
- Sao mùa nà y còn cưới à ?
- Giử thì họ cưới quanh năm chứ có như ngà y xưa đâu.
- Họ đặt bao nhiêu tiửn một đĩa hả chị?
- Hai mươi nghìn ông ạ.
Bà Ninh rửa tay pha nước cho khách, trông tay lam tay là m thoăn thoắt đến là khéo. à”ng chồng bảo "Hết việc, em "vử một cục" anh ạ, phục vụ vợ". Nhìn mấy chậu gạo nếp ngâm chuẩn bị bắc lên đồ tôi bất giác nghĩ đến tấm bánh dà y, bánh chưng từ thời hồng hoang của dân tộc thời Vua Hùng. Nó phản ánh văn minh lúa nước của dân ta. Không xa hoa, tốn kém, cầu kử³, người ta dùng ngay sản phẩm lúa gạo chế biến thà nh đặc sản. Đất là mẹ, mẹ đã sinh ra sữa nuôi sống ngà n đời cho dân tộc. Cây lúa là kết tinh của sản phẩm trời đấy, lấy "sữa" của đất, lấy tinh của trời mà cho ra hột thóc ngon là nh, rồi nó lại được chế thà nh những thức bất hủ, cho và o mồm đỡ cơn đói lòng đã đà nh, mà còn khoái khẩu suốt mấy nghìn năm - kể từ khi có lịch sử.
- à”ng uống đi, chè đang ngon.
Lời mời của chồng bà Ninh cắt ngang ý nghĩ của tôi vử cây lúa. Chỉ và o mấy yến ngô hạt, đỗ xanh, gạo nếp, bà vợ bảo:
- Đấy, ngà y nà o cũng thế nà y, ngâm ngô, đỗ, gạo nếp, xát mà y ngô, là m đỗ nấu đỗ nắm lại, công đoạn nà y là 7 đến 8 giử, rồi 2 giử đêm bắt đầu lịch kịch bắc nồi là m xôi, 4 giử sáng đã phải ra khửi nhà , người ngồi, người gánh bán quanh Hà Nội.
- Ngô phải ngâm lâu thế cơ à ?
- Vâng, ngô và đỗ xanh phải ngâm lâu, xát vử, xát mà y ngô thì mới hết sạn. Bọn em lấy hà ng toà n loại một mới bán được.
- Nghử nà y của là ng ta có đến trăm năm chưa? Tôi hửi lại.
- Em không rõ. Nhưng chắc phải hơn lẩu lầu lâu rồi. Em vử là mdâu bốn mươi năm rồi, thì bán xôi cũng bốn mươi năm. Mẹ chồng em tám chục tuổi mà cụ bảo cụ bán từ hồi còn bé, rõ rà ng phải được trăm năm.
- Giử tôi thấy họ bán chõ bằng nhôm hay i nốc, mua cái đó hiện đại, tuổi thọ cao, có hơn không? Người dân tộc cũng đang bử dần chõ gỗ nữa là ...
- Không được đâu ông ạ, bà Ninh lắc đầu. Chõ ấy chỉ dùng cho gia đình, còn là m nghử thì không được. Chõ của bọn em chọn phải là chõ sà nh chính cống Hương Canh, to, là m được hà ng yến gạo, ngô, đỗ.
à€, thì ra thế, mỗi nghử cần phương tiện riêng, không phải cứ ra chợ thấy cái tân kử³ hiện đại nà o cũng rước vử mà là m được.
- Thấy bảo xưa các cụ là m mà u bằng nước dà nh dà nh. Thứ ấy giử hiếm, thế thì chị là m thế nà o cho ra cái mà u và ng của thúng xôi?
- Đấy là nước củ nghệ. Em mua nghệ vử cạo vử, xát ra, giã rập lấy nước trộn và o xôi không sợ ngộ độc. Còn hà nh khô lúc nà o nhà cũng và i yến, thái nhử ra rồi phi với mỡ.
- Mỡ à , mỡ... tôi chợt nghĩ đến thứ mỡ kinh người mà tivi đưa tin, mỡ thì thế nà o?
- Mỡ bọn em dùng là mỡ lợn, nhà lúc nà o cũng và i yến, xong mỗi mẻ nó đen thì đổ đi, không thì ăn và o hại lắm.
- Thế cũng không tiết kiệm được à ?
Nghe đến đây, bà Ninh hơi hơi bần thần, một lúc mới buông:
- Nghử nà y ông ạ, tiếp tục cha mẹ mà phải là m thôi. Thức khuya dậy sớm quần quật, bận như con mọn mà lời lãi ít lắm. Nhưng chẳng lẽ ngồi không, ngồi không thì không có cái ăn.
- Bây giử là ng còn nhiửu người là m không hả chị?
- Mười phần bử nghử đến bảy rồi. Thanh niên thì nó không bán vì mệt nhọc lắm, các bà già thì đến tuổi "nghỉ hưu" rồi. Bán nhiửu nhất là ở lứa bốn năm chục. Chuyển nghử khác không xong, mà bán lâu thà nh nghiệp, mà đã là nghiệp thì không đi, không là m thì nhớ lắm.
Cụ Mai mẹ chồng bà Ninh vử đến nhà . Ở tuổi tám chục, da dẻ cụ vẫn hồng hà o, ăn trầu cắn chỉ. Thấy có khách tọc mạch chuyện là m ăn, cụ cười tươi:
- Tôi vừa đi chùa Linh ử¨ng ở phía trên là ng, hôm nay ngà y rằm mà , bao nhiêu người hửi tôi vử chuyện là m nghử. Là ng nà y chỉ có xôi lúa và xôi vò thôi.
Tôi lọ mọ hửi chuyện gia đình ngà y xưa, thì cụ chép miệng:
- Số tôi vất vả ông ạ, lấy chồng ngay ở là ng, ông ấy mất sớm, nuôi ba đứa con trai ăn học, đi là m, mỗi đứa một dinh cơ, tôi ở với anh cả. Giử thì được nghỉ rồi, các cháu ăn học, lớn lên được là nhử gánh xôi đấy ông ạ. Cháu nội một lũ, hai đứa đại học, thỉnh thoảng phải nói lại cho chúng nó nghe, để nó yêu nghử tổ, quý trọng sức lao động của ông bà cha mẹ, yêu lao động và không được coi thường người lao động.
Tôi ngẫm lời cụ, cà ng ngẫm cà ng thấy đúng. Người già , nghèo, nhưng cố được cơ bản cho con cháu, giữ được nghử là giữ được đức cho con cháu, sau nà y chính là cái nửn gia phong. Người Hà Nội cổ coi trọng gia phong lắm.
Bà Ninh là m thử một đĩa xôi lúa và xôi vò loáng đã xong. Mùi thơm của gạo nếp mới quyện với đỗ và ng giã nhuyễn xắt mửng, mùi thơm của mỡ quyện và o nhau ngà o ngạt, khói nghi ngút bốc lên đã khiến ứa nước miếng. Lại còn ngon con mắt nữa, mà u và ng ruộm, mà u trắng bong, nhìn và o ai chẳng muốn ăn.
- Người Tương Mai ta nấu đã đà nh, thế chở đi, ngồi bán còn nhiửu không chị?
Bà Ninh trả lời tôi chắc nịch:
- Bảo đảm với ông là chỗ nà o cũng có. Gần như chợ Mơ, rồi ngõ Hồng Mai, chợ Mồng tám tháng ba, đến xa, gánh rong trên phố bán xôi nếu bác hửi họ đửu là gốc Tương Mai cả.
- Thế còn xôi trắng, có trứng, có thịt thì sao?
- Là ng em chỉ có xôi xéo và xôi vò. Sau nhiửu người họ cải tiến, thổi xôi trắng cho thịt, hay trứng, rồi xôi đỗ đen, xôi gấc. Nếu xôi cho trứng, mà trứng không chín thì nó tanh ngòm lên, là m sao ăn được. Những loại xôi nà y thường giá cả cao hơn hẳn xôi Tương Mai bác ạ.
Kể sáng ra được bát xôi đúng của là ng Tương Mai thì thích thật. Dễ ăn, lại rẻ, có 3 ngà n cũng no buổi sáng, hợp túi tiửn của người nghèo, người lao động. Mà lại sạch, nó là ngọc thực. Thủ đô giử bát ngát món ăn ba miửn, món thế giới, riêng quà sáng đã đủ cả bánh cuốn, phở, bún... Nhưng giử nên nghĩ đến vệ sinh thực phẩm phải an toà n, không phải ta chỉ ăn hóa chất, thức nhuộm, mà là ăn chất độc và o người. Trên phương diện ấy thì xôi là thứ là nh lắm.
Câu chuyện đến đây phải dừng, vì bà Ninh quá tất bật. Tạm biệt là ng xôi Tương Mai, tôi thấy nửa mừng nửa tiếc. Thời mở cửa, đô thị hóa, nhiửu là ng trong phố, lên phường, thì cũng là một bước tiến của Thủ đô ta. Nhưng vẫn cần nghĩ và hiểu rằng các là ng nghử cần giữ gìn được bản sắc của là ng đó. Mà như thế nó mới là Thủ đô. Cũng như đi và o một là ng nghử, bên cạnh những mảng bê tông thì lại còn một lũy tre, rặng cây, tươi mát bao nhiêu.