à”ng Đoán và bó cãnh, nguyên liệu là m nên giấy quử³. Ảnh: Hoà ng Lê
Theo sử sách chép lại thì nghử là m giấy có từ trước đó rất lâu, có thể từ thế kỉ thứ ba sau Công nguyên. Cho đến khi nhà nước Đại Việt ra đời và định đô ở Thăng Long thì nghử nà y ở là ng Yên Thái đã phát triển mạnh.
Trong sách "Dư địa chí" (1435), Nguyễn Trãi cũng đã đử cập đến phường Yên Thái (thuộc tổng Bưởi cũ nên còn được gọi là giấy dó kẻ Bưởi) ở Thăng Long gồm các là ng Hồ Khẩu, Đông Xã, An Thọ, Yên Thái, Nghĩa Đô là m ra nhiửu loại giấy: giấy sắc (để viết sắc của vua ban), giấy lệnh (để viết các lệnh chỉ của vua), giấy bản (phục vụ dân dụng), giấy quử³ là loại giấy đẹp nhất...
Là ng Yên Thái không còn ai là m nghử giấy dó. Những người còn nhớ nghử, biết nghử cũng còn đếm trên đầu ngón tay. Tuy nhiên nếu nói là m giấy dó đẹp nhất, kĩ thuật điêu luyện nhất phải nhắc tới bí quyết là m giấy dó của là ng Đông Xã, trong đó dòng họ gia đình Nguyễn Thế mà bây giử ông Nguyễn Thế Đoán, là người cuối cùng lưu giữ những bí quyết của dòng họ cũng như của nghử là m giấy dó Hà Thành.
Nghử lắm công phu
Ở Việt Nam có nhiửu nơi là m giấy dó do vậy cũng có những công đoạn chung. Tuy nhiên cách là m giấy dó tổng Bưởi xưa lại có những bí quyết riêng nên giấy dó Bưởi được dùng là m giấy tiến vua khi xưa.
Theo ông Nguyễn Thế Đoán, giấy dó Bưởi có nhiửu loại, mỗi loại tùy thuộc và o vử của cây tạo nên. Người ta thường là m từ năm loại cây gồm có: dó, bo, dướng, cãnh, mận, mộc...
Đối với cây dó, là loại cây phổ biến dùng là m giấy dó: lớp vử ngoà i cùng dùng để là m giấy moi, lớp vử thứ hai là m giấy bản. Còn loại giấy quử³, loại giấy đẹp nhất lại phải được là m từ cây cãnh thì giấy mới đẹp, mịn, dai, bóng...
Nếu loại nà y thiếu thì người thợ lấy bìa thứ ba sát với thân cây dó để trộn cùng với cãnh. Tuy nhiên khi pha trộn người thợ chỉ được dùng lượng dó nhất định để pha cùng với cãnh, nếu tham quá nhiửu dó thì giấy sẽ hửng.
Công đoạn thứ hai để là m ra giấy dó là đồ. Sau khi đồ xong, người thợ sẽ bó thà nh từng bó nhử đem ngâm dầm và o bể nước để cho vử bở ra, chỉ còn sợi.
Ngâm được khoảng 2,3 ngà y người thợ vớt vử dó hoặc cãnh lên để đạp (đãi), sau đó sẽ được rửa lại bằng cách nhúng từng sợi một trong một chiếc bát tô, rửa sao cho từng sợi không còn dính vẩy vử và để lên một cái mâm sạch.
Công đoạn nhặt sợi nà y đòi hửi sự kiên nhẫn của người thợ, có khi người thợ là m cả ngà y cũng chỉ nhặt ra được và i bó nhử. Sau khi nhặt xong, đem dó, cảnh và o cối giã gọi là giã bìa, giã sao cho sợi (xenlulo) nhử như sợi tóc. Sau khi giã xong người thợ bử và o bể seo đánh khoảng 2.000 “ 3.000 đòn để bột như cháo.
Trong quá trình đánh bột seo (kéo tà u), người thợ phải cho nhựa của gỗ cây mò và o để cho bột kết tủa. Sau khi kéo tà u, người thợ sẽ đưa ra phên, qua một đệm ép uốn để cho nó phẳng trong vòng nửa tiếng cho khô, rồi bóc uốn để tạo ra những tay uốn khoảng 40 tử. Quá trình bồi sấy giấy là công đoạn cuối cùng để cho giấy được khô và hoà n thà nh.
Khổ giấy thường tùy và o khách đặt tuy nhiên thuửng thì khổ giấy (trước kia) là 35cm x 55cm, cỡ hiện nay là 28cm x 64cm.
Mặc dù bây giử Tổng Bưởi xưa cũng như bản thân dòng họ Nguyễn Thế không còn là m giấy dó nữa nhưng ông Đoán vẫn nhớ được từng bí quyết, công đoạn của nghử mà ông Đoán đã được là m cùng ông nội và cha khi mới 15, 16 tuổi.
à”ng Đoán cho biết nghử là m giấy dó là thủ công nên khá vất vả, đòi hửi độ công phu, tính kiên nhẫn mới là m nghử được. Hầu hết những công đoạn quan trọng trong đó có công đoạn pha chế nhựa gỗ cây mò cùng với bột dó, cãnh phải là chính tay người trong gia đình là m để đảm bảo bí quyết của dòng họ. Công đoạn seo giấy phải do chính tay những người con dâu của gia đình dòng họ Nguyễn Thế đảm nhận.
Khó giữ nghử
Nghử là m giấy dó có nhiửu ở vùng ở nước ta, trong đó nổi tiếng nhất đã đi và o ca dao xưa như ở Bắc Ninh và là ng Bưởi, Hà Nội. Tuy nhiên giấy dó Bưởi trong đó có giấy Qùy vẫn nức tiếng vử độ đẹp, bóng, mịn như lụa Hà Đông, vò không nát, vuốt ra lại phẳng. Nếu là giấy hai lớp thì xé cũng không thể rách để trong điửu kiện bình thường, không cần bảo quản kử¹ lườ¡ng giấy cũng có tuổi thọ và i trăm năm. Vì vậy giấy dó Bưởi được dùng để tiến vua. Tới những năm cuối kháng chiến chống Mử¹, Trung Ương Đảng lại đặt hà ng giấy dó Yên Thái để in di chúc Bác Hồ.
Sau năm 1990, một loạt hợp tác xã sản xuất giấy dó ở vùng Bưởi như: Hợp tác xã Cộng Lực, Hợp tác xã Đông Thà nh, Hợp tác xã Đông Hòa ở vùng Bưởi giải tán, do không tiêu thụ được sản phẩm. Kể từ đó, nghử là m giấy dó không còn trên đất Thăng Long - Hà Nội.
Hiện nay người Bưởi không còn ai là m giấy dó nữa. Còn giấy dó ở Bắc Ninh chỉ và i gia đình giữ được nghử nhưng không còn đẹp và chất lượng như xưa. Người Hà thà nh bây giử vẫn còn Tây Hồ, sông Tô Lịch. Cách đây hơn 20 năm thôi người tổng Bưởi vẫn ra sông Tô đãi dó. Giử đây tiếng chà y giã dó chỉ còn trong câu ca: nhịp chà y Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Chuyện khôi phục lại nghử là m giấy dó là một việc vô cùng khó khăn mặc dù hiện nay thị trường đang có nhu cầu mặt hà ng nà y. à”ng Đoán tâm sự: có lẽ trong 4 nghử bậc nhất tinh hoa Hà thà nh thì kĩ nghệ là m giấy dó Bưởi sắp lâm và o cảnh không có truyửn nhân. Trong thời gian không xa, những kĩ nghệ bí truyửn là m nên giấy dó lụa bậc nhất Việt Nam sẽ không còn nữa.