Tư liệu quý chứng minh chính sách khuyến khích học ''tiếng Tây'' từ triều Nguyễn

KTĐT| 05/09/2021 10:20

Triều Nguyễn, các vị vua đều quan tâm đến việc học ngoại ngữ và ban hành nhiều chủ trương, chính sách về dạy và học các thứ tiếng nước ngoài. Định hướng về chủ trương đó vẫn còn được lưu giữ trong châu bản, mộc bản triều Nguyễn. Những di sản tư liệu thế giới này đang được giới thiệu tại triển lãm 3D “Giáo dục triều nguyễn - Vang vọng còn lại”.

Học ngoại ngữ được cấp quần áo, đồ ăn
Nền giáo dục cũ, trong đó có giáo dục triều Nguyễn đã lùi xa nhưng triết lý về giáo dục và đào tạo nhân tài triều Nguyễn vẫn là những giá trị có sức sống lâu bền, được ghi nhận trong lịch sử. Cụ thể, trong hơn 100 tư liệu được lựa chọn từ châu bản, mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (Cục văn thư lưu trữ Nhà nước ) tổ chức triển lãm 3D “Giáo dục triều nguyễn – Vang vọng còn lại”.
Thông qua các di sản tư liệu thế giới có thể thấy, cũng như các triều đại trước, nội dung học tập triều Nguyễn là tứ thư, ngũ kinh đồng thời luyện tập các pháp làm thơ văn. Ngoài ra, một số văn bản thời Tự Đức cho thấy sự cần thiết của việc học ngoại ngữ lúc bấy giờ.
Trong một tài liệu mộc bản có nêu: “Phụng xét người bản quốc hiện nay am hiểu tiếng Pháp rất ít, lúc cần phái việc gì rất ít người. Nếu chọn các con em thiếu niên ra nước ngoài học tập thì phí tổn rất lớn mà lần đầu đi xa chưa hẳn đã vui vẻ, tình nguyện. Vậy nay xin quan do phủ Thừa Thiên và hai tỉnh Nam Ngãi hết lòng tuyển chọn các con em của dân lương và trẻ nhỏ trong hạt từ 10 đến 16 tuổi, mỗi tỉnh khoảng 10 tên gửi đến hoặc do nha thần tập hợp. Toàn năm cấp quần áo, đồ ăn, phái một viên ký lục (tú tài xuất thân) và một viên thông ngôn (như Nguyễn Đức Minh sung giáo tập và thông dịch tiếng Pháp thuộc nha đến dạy học”.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược (1858), việc tiếp xúc với tiếng Pháp, chữ Pháp mở rộng hơn trước và đòi hỏi người học phải nâng cao trình độ, triều đình nhà Nguyễn đã ban hành quy định và chế độ học tiếng Tây mới. Cụ thể, người học chữ Tây, tiếng Tây, hạn học tập mỗi ngày quy định là 10 chữ kể cả tiếng nói. Cứ 3 tháng một kỳ, nội các và Bộ Lễ phối hợp sát hạch. Ai đọc thuộc lòng, thông hiểu, chữ viết đúng, ngay ngắn, nhiều đến 100 cả chữ lẫn âm thì xếp vào hạng ưu, được thưởng 6 quan tiền; nếu được 50 cả chữ lẫn âm thì xếp vào hạng trung bình được thưởng 4 quan tiền.
Chắt lọc tinh hoa
Đã hơn 100 năm kể từ khoa thi Nho học cuối cùng của triều Nguyễn. Những dấu tích về một nền giáo dục xưa cũ tưởng như đã chìm vào quá khứ. Nay lại được tìm thấy trong hơn 100 văn bản đặc sắc từ khối di sản tư liệu thế giới Châu bản và Mộc bản triều Nguyễn. Với những con người, câu chuyện cụ thể từ việc thiết lập hệ thống trường học đến không khí khai giải mở đầu cho năm học mới.
Theo các tài liệu từ mộc bản và châu bản triều Nguyễn: Ngày khải giảng được tiếng hành theo ngày tốt mà Khâm thiên giám chọn, đó là sau ngày khai ấn, công tác chuẩn bị cho lễ khai giảng được thực hiện chu đáo. Quan Tế Tửu đem toàn bộ thầy trò, mũ áo chỉnh tề lên Di Luân đường làm lễ yết cáo Tiên sư (Khổng Tử). Có thể thấy, lễ khai giảng dưới triều Nguyễn mang đậm dấu ấn thời đại lúc bấy giờ.
Trong số những tài liệu được trưng bày trong triển lãm 3D, nghi lễ khai giảng ở nhà Di Luân – Quốc Tử Giám, năm Bính Thân (1836) có trích trong Bộ Lễ tâu rằng: “Nhà Di Luân ở Quốc Tử Giám trước đã đặt bài vị Tiên sư để làm chỗ cho sinh viên bái vọng. Hàng năm, khai giảng hay nghỉ giảng đều làm lễ triển bái ở đó. Các tiến sĩ tân khoa cũng làm lễ Thích điện tại đó. Vả lại, Văn Miếu ở bên tả nhà Quốc Tử Giám, cũng tế long trọng đã có rồi, bái yết ở đó là hợp nghi. Vậy xin từ này, hễ học sinh nào và nhà Giám thì giám thần mặc phẩm phục, đem học sinh đến Văn Miếu làm lễ cáo yết xong, lui về giảng đường làm lễ tham yết. Khi khai giảng hay nghỉ giảng không phải cáo lễ nữa. Khi các tiến sĩ làm lễ Thích điện, cũng xin cho làm ở sân miếu, mới tỏ được trang trọng kính cẩn; còn cho bái vọng xin đừng đặt nữa. Vua cho là phải”.
Về việc xây trường, dựng lớp, trong di sản tư liệu thế giới có thông tin về việc, Năm 1803, vua Gia Long cho mở nhà Quốc học tại Kinh đô Huế để tổ chức dạy học cho con cháu thuộc dòng họ tôn thất của nhà vua, con của các quan chức thuộc bộ máy Nhà nước và con của dân thường ưu tú, nhằm bổ sung vào đội ngũ quan lại của triều đình. Năm 1820, thời Minh Mệnh, nhà quốc học chính thức mang tên Quốc Tử Giám, trở thành trường học cấp cao nhất ở Kinh đô dưới triều Nguyễn. Quan tâm tới việc đào tạo, vua Tự Đức giao những người nào học hạnh sung làm chức quan ở Quốc Tử Giám. Các giám sinh được triều đình tạo điều kiện tốt nhất có thể cho việc học hành, ăn ở tại Giám, được triều đình cấp tiền, dầu đèn. Những người học kém, lười biếng sẽ bị trách phạt, thậm chí đuổi học.
“Ôn cố tri tân” – trong năm học mới, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã giới thiệu triển lãm đặc biệt, nơi khán giả có thể tìm thấy những mảnh ký ức về một thời vàng son của Nho học và sống lại không khí của một thời bút nghiên. “Gạn đục khơi trong” thế hệ hôm nay có thể chắt lọc những tinh hoa về nền giáo dục xưa và vận dụng linh hoạt vào nền giáo dục ngày nay.
(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Chuyển đổi số - Cơ hội và thách thức với văn học nghệ thuật Thủ đô
    Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu của mọi lĩnh vực đời sống, văn học nghệ thuật Thủ đô cũng đứng trước những vận hội lớn cùng không ít thách thức. Tọa đàm “Văn học nghệ thuật Thủ đô trong ứng dụng chuyển đổi số hiện nay” do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức sáng 5/12 đã góp phần nhận diện những chuyển động mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật trong môi trường số, đồng thời gợi mở những định hướng phát triển phù hợp với thực tiễn.
  • Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô
    Sáng 4/12, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Diễn xướng dân gian trong lễ hội Hà Nội: Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Đan Phượng”. Qua phần trình bày của nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, họa sĩ Giang Nguyên Thái và Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên, những giá trị lịch sử, đặc trưng nghệ thuật và hành trình bảo tồn, phát huy của hai loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này đã được làm sáng rõ.
  • Bài 4: Nguồn nhân lực văn hóa nghệ thuật - “lực lượng tiên phong” chấn hưng văn hóa
    Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh mà còn là động lực và hệ điều tiết phát triển bền vững. Đặt con người vào trung tâm, Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu “chăm lo đội ngũ văn nghệ sĩ” và “ưu tiên phát triển các cơ sở đào tạo văn hóa, nghệ thuật”... Đây không chỉ là bổ sung nhiệm vụ mà là sự tái định vị vai trò của văn học nghệ thuật trong phát triển văn hóa.
  • Tuyên truyền cổ động trực quan kỷ niệm 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam
    Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có văn bản số 6578/BVHTTDL-VHCSGĐTV gửi UBND các tỉnh, thành phố đề nghị phối hợp chỉ đạo thực hiện việc tuyên truyền cổ động trực quan kỷ niệm 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam; Bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI và bầu cử HĐND các cấp.
  • MV “Gió” - Wean và marzuz hợp tác nghệ thuật kết nối giá trị bền vững
    Ca khúc “GIÓ” của WEAN và marzuz chính thức ra mắt, mở đầu cho chiến dịch “Nhấn kết nối – Bật thay đổi” thuộc sáng kiến Cửa ngõ Toàn cầu của Liên minh châu Âu, truyền tải thông điệp về tinh thần đổi mới và kết nối của giới trẻ Việt Nam vì một tương lai bền vững.
Đừng bỏ lỡ
Tư liệu quý chứng minh chính sách khuyến khích học ''tiếng Tây'' từ triều Nguyễn
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO